Xét nghiệm lien quan : Pleural Fluid Analysis, Pericardial Fluid Analysis, Gram Stain,Susceptibility Testing, Glucose, Albumin, WBC Count, RBC Count, AFB Smear and Culture

Dịch phúc mạc  là một chất lỏng có vai trò như một chất bôi trơn trong khoang bụng. Nó được tìm thấy với số lượng nhỏ khoảng 100 mL giữa các lớp phúc mạc. Được sản xuất bởi các tế bào mesothelial trong màng bụng, dịch màng bụng có tác dụng  làm ẩm bên ngoài của các cơ quan và  giảm ma sát các nhu động của  cơ quan trong quá trình tiêu hóa.

Bạn đang xem: Saag là gì

*

Một loạt các nguyên nhân và các bệnh có thể gây ra viêm phúc mạc (peritonitis) và / hoặc tích tụ quá nhiều dịch phúc mạc (tràn dịch màng bụng hoặc cổ trướng). Phân tích dịch phúc mạc là một nhóm các xét nghiệm đánh giá dịch này để xác định nguyên nhân gây tăng dịch.

Hai lý do gây tích tụ dịch trong khoang bụng là:

Sự mất cân bằng giữa áp suất trong máu (áp suất thủy tỉnh ) làm chất lỏng thoát ra khỏi mạch máu và số lượng protein trong máu ( áp suất thẩm thấu ) giữ  chất lỏng ở trong các mạch máu. Các chất lỏng tích tụ trong trường hợp này được gọi là một dịch thấm (transudate). Transudates thường được gây ra bởi suy tim sung huyết hoặc xơ gan.

Một chấn thương hoặc viêm phúc mạc, trong trường hợp này chất lỏng được gọi là dịch tiết. Loại dịch này có thể là kết quả của nguyên nhân chẳng hạn như nhiễm trùng, khối u ác tính (di căn ung thư, ung thư hạch, u trung biểu mô), hay bệnh tự miễn.

Phân biệt giữa các loại dịch là quan trọng bởi vì nó giúp chẩn đoán bệnh hoặc nguyên nhân có khả năng gây tích tụ dịch. Các bác sĩ sử dụng các xét nghiệm ban đầu gồm (số tế bào, mức độ albumin, và sự xuất hiện của chất lỏng) để phân biệt giữa dịch thấm và dịch tiết. Một khi chất lỏng được xác định là dịch thấm hay dịch tiết, các xét nghiệm bổ sung có thể được thực hiện sau đó để xác định bệnh hoặc nguyên nhân gây viêm màng bụng và/hoặc cổ trướng.

Phân tích được sử dụng như thế nào?

Phân tích dịch phúc mạc được sử dụng để giúp chẩn đoán nguyên nhân gây ra tích tụ dịch màng bụng (cổ trướng) và / hoặc viêm màng bụng (phúc mạc). Có hai lý do chính để tích lũy chất lỏng, và thiết lập một bảng các xét nghiệm ban đầu (mức dịch albumin, số tế bào , loại tế bào , và sự xuất hiện) được sử dụng để phân biệt giữa hai loại dịch có thể được sản xuất.

Sự mất cân bằng giữa áp suất trong mạch máu ( áp suất thuỷ tỉnh ) dịch ra khỏi các mạch máu và số lượng protein trong máu (áp suất thẩm thấu ) giữ chất lỏng trong các mạch máu, có thể dẫn đến sự tích tụ của chất lỏng (gọi là dịch thấm). Dịch thấm thường được gây ra bởi suy tim sung huyết hoặc xơ gan. Nếu chất dịch được xác định là một dịch thấm , thường không cần làm thêm xét nghiệm khác sau đó .

Chấn thương hoặc viêm phúc mạc có thể gây những bất thường của chất lỏng (gọi là dịch tiết). Dịch tiết có liên quan đến một loạt các nguyên và các bệnh, và một số xét nghiệm  ngoài các xét nghiệm ban đầu đã thực hiện, có thể được sử dụng để giúp chẩn đoán các nguyên nhân cụ thể, bao gồm:

Các bệnh truyền nhiễm gây ra bởi virus, vi khuẩn, hoặc nấm. Nhiễm trùng có thể có nguồn gốc trong phúc mạc, do vỡ ruột thừa, thủng ruột hoặc thành bụng, nhiễm bẩn trong quá trình phẫu thuật, hoặc có thể lây lan sang phúc mạc từ những nơi khác trong cơ thể.Tình trạng viêm – viêm phúc mạc do một số hóa chất, chiếu xạ, hiếm khi do một rối loạn tự miễn dịchKhối u ác tính – chẳng hạn như u trung biểu mô, khối u của gan (hepatoma), lymphoma, ung thư di cănViêm tụy

Các thử nghiệm dịch tiết có thể bao gồm:

Glucose dịch màng bụng, amylase,  dấu ấn  khối uKiểm tra bằng kính hiển vi có thể được thực hiện nếu nghi ngờ nhiễm trùng hoặc ung thư. Các phòng thí nghiệm có thể kiểm tra các giọt dịch phúc mạc và / hoặc sử dụng một máy ly tâm đặc biệt (cytocentrifuge) tập trung các tế bào của chất lỏng ở dưới cùng của một ống nghiệm. Các mẫu được đặt trên một slide, được nhuộm màu đặc biệt, và đánh giá về sự khác nhau của các loại tế bào hiện diện.Phết nhuộm Gram – để quan sát trực tiếp các vi khuẩn hoặc nấm dưới kính hiển vi. Có hay không có sinh vật hiện diện trong dịch màng bụng.Cấy vi khuẩn và thử nghiệm tính nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn – được chỉ định để phát hiện bất kỳ vi sinh vật có thể xuất hiện trong dịch màng bụng và hướng dẫn kháng sinh liệu pháp.Ít chỉ định hơn là xét nghiệm các bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như xét nghiệm virus, mycobacteria (AFB trực tiếp và cấy), và ký sinh trùng.

Khi nào được chỉ định?

Phân tích dịch phúc mạc có thể được chỉ định khi các bác sĩ nghi ngờ rằng một người có một nguyên nhân hoặc bệnh nào đó gây ra viêm phúc mạc và / hoặc cổ trướng. Nó có thể được chỉ định khi một ai đó:

Cổ trướng không rõ nguồn gốc, xuất xứĐau bụng và nhạy cảmThủng đường ruột Nghi ngờ bệnh ác tính trong ổ bụng

Kết quả xét nghiệm có ý nghĩa là gì?

Kết quả thử nghiệm có thể giúp phân biệt giữa các loại dịch phúc mạc và giúp chẩn đoán nguyên nhân tích tụ dịch. Các thử nghiệm ban đầu được thực hiện trên một mẫu của dịch phúc mạc sẽ giúp xác định dịch là một dịch thấm hoặc dịch tiết. :

Dịch thấm

Chín mươi phần trăm dịch cổ trướng là dịch thấm và được gây ra bởi hoặc suy tim sung huyết hoặc xơ gan. Kết quả phân tích chất lỏng điển hình bao gồm:

Đặc điểm vật lý : chất lỏng trongMức độ Albumin  thấp (giá trị thường được đánh giá là sự khác biệt giữa  albumin huyết thnh và albumin phúc mạc , gọi là Gradient albumin huyết thanh – cổ trướng,( serum-ascites albumin gradient, hay SAAG)  SAAG trên 1,1 g / dL được coi là bằng chứng của một transudate.) Số tế bào ít

Dịch tiết

Đặc điểm vật lý : dịch có thể vẩn đụcMức độ Albumin  cao hơn trong dịch thấm( SAAG thường nhỏ hơn 1,1 g / dL)Số tế bào tăng

Dịch tiết có thể được gây ra bởi một loạt các nguyên nhân và các bệnh và thường đòi hỏi phải thử nghiệm thêm nữa để hỗ trợ trong chẩn đoán. Dịch tiết có thể được gây ra bởi, ví dụ, nhiễm trùng, chấn thương, ung thư khác nhau, hoặc viêm tụy. Sau đây là một danh sách các xét nghiệm bổ sung mà các bác sĩ có thể chỉ định tùy thuộc vào nguyên nhân gây ra nghi ngờ và kết quả tiêu biểu xét nghiệm ban đầu.

Đặc tính vật lý – Dịch phúc mạc bình thường có màu vàng rơm và trong. Xuất hiện bất thường có thể cung cấp cho các đầu mối nguyên nhân hoặc các bệnh hiện tại và có thể bao gồm:

*

– Màu vàng với bệnh gan, sữa từ tắc nghẽn của hệ bạch huyết, và màu xanh lục từ mật

– Màu đỏ có thể chỉ ra sự hiện diện của máu.

– Dịch  phúc mạc vẩn đục có thể có sự hiện diện của vi sinh vật và / hoặc các tế bào máu trắng nghĩ đến nhiễm khuẩn.

Xem thêm: Brand Name Là Gì – Nghĩa Của Từ Brand Name

Xét nghiệm hóa chất : ngoài albumin, xét nghiệm có thể được thực hiện  bao gồm:

– Glucose: tương đượng  lượng đường trong máu; có thể thấp hơn với nhiễm trùng.

– Amylase tăng với viêm tụy

– Dấu ấn khối u để xác định loại bệnh ác tính

Kiểm tra bằng kính hiển vi có thể được thực hiện nếu nghi ngờ nhiễm trùng hoặc ung thư. Dịch phúc mạc bình thường có một lượng nhỏ các tế bào máu trắng (bạch cầu) nhưng không có các tế bào máu đỏ (hồng cầu) hoặc vi sinh vật. Kết quả của việc đánh giá của các loại khác nhau của các tế bào hiện diện có thể bao gồm:

– Tổng số bạch cầu và hồng cầu trong mẫu được liệt kê. Bạch cầu tăng có thể được nhìn thấy với các bệnh nhiễm trùng và nguyên nhân ác tính.

– Xác định tỷ lệ phần trăm của các loại bạch cầu: Gia tăng số lượng bạch cầu trung tính có thể được nhìn thấy với nhiễm khuẩn.

– Tế bào học – một mẫu dịch ly tâm ( cytocentrifuged) cặn ở đáy ống nghiệm được trãi trên slide và được nhuộm màu đặc biệt , được kiểm tra dưới kính hiển vi cho các tế bào bất thường và sự khác biệt tế bào máu trắng. Sự khác biệt có thể giúp xác định liệu các tế bào là kết quả của một nhiễm trùng hay sự hiện diện của một khối u.

Xét nghiệm bệnh truyền nhiễm – các xét nghiệm có thể được thực hiện để tìm vi sinh vật nếu nghi ngờ nhiễm trùng.Phết nhuộm Gram  – để quan sát trực tiếp vi khuẩn hoặc nấm dưới kính hiển vi. Có hay không có sinh vật hiện diện trong dịch phúc mạc.Cấy vi khuẩn và thử nghiệm tính nhạy cảm kháng sinh của vi khuẩn Nếu vi khuẩn có mặt, thử nghiệm tính nhạy cảm có thể được thực hiện để hướng dẫn kháng sinh liệu pháp. Nếu không có các vi sinh vật hiện diện, không loại trừ một bệnh nhiễm trùng, vi trùng có thể có mặt với số lượng nhỏ hoặc tăng trưởng của vi trùng có thể bị ức chế vì điều trị kháng sinh trước đó. Ít phổ biến, nếu thử nghiệm cho các bệnh truyền nhiễm khác được thực hiện và là dương tính,  nguyên nhân của sự tích tụ dịch phúc mạc có thể là do nhiễm virus, mycobacteria (như Mycobacterium gây bệnh lao), hoặc ký sinh trùng.

Điều gì khác  cần biết?

Xét nghiệm glucose hoặc albumin trong máu có thể được chỉ định để so sánh nồng độ  những chất đó trong dịch màng bụng. Nếu bác sĩ nghi ngờ rằng một người có thể có một nhiễm trùng máu, bác sĩ có thể chỉ định cấy máu thêm vào phân tích dịch phúc mạc.

Câu hỏi thường gặp

1. Chọc hút là gì và làm thế nào để thực hiện?

Chọc hút  là việc loại bỏ các dịch phúc mạc từ khoang bụng với một cây kim, ống, và một bình mà có thể là bình chân không. Bệnh nhân được đặt nằm xuống với đầu giường nâng lên. Thuốc tê cục bộ được áp dụng và sau đó bác sĩ chèn kim vào trong khoang bụng và mẫu được lấy ra.

*

2. Có những lý do khác để làm một chọc hút?

Vâng. Đôi khi nó sẽ được thực hiện để rút  dịch phúc mạc dư thừa – để làm giảm áp lực trong ổ bụng. Khối lượng dịch bị loại bỏ có thể lớn đôi khi tới bốn lít (1 gallon) hoặc nhiều hơn. Điều này có thể cần phải được lặp lại định kỳ với một số bệnh.

Xem thêm: Auto Cad Là Gì – Những Ai Cần Học Autocad

3. Có thực hiện thủ thuật nào khác để giúp đánh giá các nguyên nhân liên quan đến phúc mạc không?

Vâng. Nếu nghi ngờ chảy máu bụng, nhưng không phải là chắc chắn vì không có sưng bụng, rửa phúc mạc có thể được thực hiện. Điều này được thực hiện bằng cách chèn một ống nhỏ (ống thông) vào không gian phúc mạc, đưa một lượng nhỏ  chất lỏng vô trùng, và sau đó thu hồi chất lỏng để xem  có máu hay không . Đếm số lượng tế bào thường được thực hiện trên một mẫu chất dịch nầy.

Chuyên mục: Hỏi Đáp