CTYPE html>Áp dụng thuyết Hành vi (Behaviorism) để dành được cuộc hẹn hoàn hảo (P1) | VIET Psychology

*

*

Rất nhiều người đặt câu hỏi tại sao “người ấy” không mời mình đi chơi khi mà “tình trong như đã, mặt ngoài còn e”. Các cô gái thì không biết tại sao anh ấy dám ngỏ lời trong chi các chàng trai thắc mắc vì sao cô gái luôn trốn tránh việc đi vào mối quan hệ tình cảm. Cuối cùng, cả hai đổ lỗi cho sự “sợ hãi”. Đàn ông ngại việc ngỏ lời mời, còn phụ nữ thì sợ bị tổn thương.

Bạn đang xem: Operant conditioning là gì

Thế nhưng, liệu sự sợ hãi có phải là nguyên nhân chính đằng sau tất cả sự ngại ngùng này? Có cách nào có thể dẹp bỏ sự sợ hãi này không? Những cơ chế tâm lý nào có thể giúp một người tự tin hơn trong việc tìm kiếm và phát triển các mối quan hệ? Một vài hiểu biết về thuyết Hành vi của Tâm lý học có thể giúp bạn tìm ra câu trả lời cho trường hợp oái oăm của mình.Phần 1: Tìm hiểu về Thuyết hành vi (Behaviorism)

Thuyết hành vi, được hình thành bởi nhà tâm lí học người Mỹ John B. Watson năm 1913, cho rằng tâm lí học giải thích hành vi của con người không dựa trên quá trình nhận thức diễn ra trong não hay những hành vi không thấy rõ (covert behaviors), mà là những quan sát hành vi được nhận ra (overt behaviors). Học thuyết này sau đó đã được phát triển thành hai luận thuyết nổi tiếng bởi Ivan Pavlov và Burrhus Frederic Skinner.

1. Điều kiện hoá cổ điển (Classical Conditioning)

Pavlov cho rằng hành vi là kết quả của quá trình thành lập phản xạ có điều kiện. Ông khám phá ra điều này khi làm thí nghiệm trên con chó của mình. Ban đầu, ông chỉ muốn thí nghiệm điều kiện làm một con chó rõ nước dãi. Ông thường rung chuông trước khi mang thức ăn đến cho con chó và phát hiện rằng con chó nhỏ nước dãi trước khi thức ăn thật sự đưa tới miệng. Ngạc nhiên hơn, ngay cả khi ông rung chuông mà không mang theo thức ăn, con chó vẫn nhỏ nước dãi nhiều hơn bình thường.

Từ đó, Palov kết luận rằng một kích thích có điều kiện (Conditioned Stimulus – CS) nếu luôn xảy ra ngay sau (hoặc cùng lúc với) kích thích không điều kiện (Unconditioned Stimulus – US) có thể dẫn tới phản ứng vốn chỉ chịu tác động bởi kích thích không điều kiện (Unconditioned -> Conditioned Response – U/CR). Ở đây, con chó luôn ngửi thấy mùi thức ăn ngay sau khi (hoặc cùng lúc với) nghe tiếng chuông rung thì ngay cả khi lúc không có thức ăn, nó vẫn rõ nước dãi nhiều hơn bình thường.

Xem thêm: Ad Network Là Gì – Tại Sao Nên Chọn Mạng Quảng Cáo

2. Điều kiện hoá từ kết quả (Operant Conditioning)

Skinner cho rằng hành vi chịu ảnh hưởng của kết quả mà chính nó gây ra. Con người luôn muốn giành được những gì tốt đẹp nhiều nhất có thể như thành công, hạnh phúc, và tránh những hậu quả xấu như sự đau đớn, thất bại, trừng phạt. Vì thế, chúng ta luôn muốn làm những gì mà trong quá khứ đã, và mặc niệm rằng trong tương lai sẽ, dẫn tới một kết quả tốt đẹp. Khi ấy, hành vi của chúng ta “được củng cố” (reinforced), và những yếu tố củng cố hành động được gọi là “reinforment”. Ngược lại, chúng ta cũng không muốn làm những gì đã và sẽ đưa đến kết quả không tốt đẹp, vì điều đó sẽ gây bất lợi hay mang đến những kết quả tai hại cho chúng ta (punishment).

3. Chúng ta đưa ra quyết định hành vi như thế nào?

Các quyết định và hành vi của con người được đưa ra dựa trên từng loại điều kiện hóa hành vi riêng biệt hoặc cả hai loại điều kiện này. Ví dụ: Bạn thoáng nhìn thấy một cái gì dài và thon nhỏ (có thể là một sợi dây) cựa quậy như con rắn. Bạn cảm thấy sợ đến “bủn rủn chân tay” và vội vàng chạy vọt đi.

Việc bạn cảm thấy sợ đến “bủn rủn chân tay”: Phản ứng từ điều kiện hoá cổ điển. Cơ thể bạn phản ứng lại hình ảnh sợi dây trước mặt, thể hiện qua sự “bủn rủn chân tay” hay tim đập mạnh. “Bủn rủn chân tay” hay “tim đập mạnh” là những phản ứng vô điều kiện vì bạn không thể tự kiểm soát được sự xuất hiện của những biểu hiện đây. Sợ hãi trước rắn là phản ứng của con người từ thởi tiền sử khi chúng ta sống gữa thiên nhiên hoang dã.Việc bạn chạy vọt đi: Phản ứng từ điều kiện hoá từ kết quả. Bạn tự điều khiển mình chạy đi vì bạn biết rằng đến gần một con rắn có thể gây hậu quả xấu (bị cắn chết) nên cần phải tránh.

Xem thêm: Imitation Là Gì – Nghĩa Của Từ Imitation

*

Con người có thể học cả hai loại điều kiện hóa hành vi mà không cần trải qua quá trình tương tác với các kích thích hay trải qua quá trình được thưởng và bị phạt một cách trực tiếp. Điều này là do con người có khả năng “học” bằng cách quan sát người khác (học thuyết Social Learning Behavior của Bandura). Ví dụ, khi ta thấy một con rắn, mặc dù chưa hề bị rắn cắn, chúng ta vẫn cảm thấy sợ, một vài người nổi da gà. Đó là vì chúng ta đã “học” nỗi sợ đó qua ti vi, phim ảnh hay các phương thức khác. Hay bạn biết mình không thể nói xấu sếp trên Facebook, vì bạn đã từng đọc câu chuyện về những người bị đuổi việc vì hành vi tương tự.

(Còn tiếp)

Phần 2: Tại sao người ấy vẫn chưa ngỏ lời mời với bạn? Áp dụng thuyết hành vi để nghiên cứu xem liệu có những yếu tố nào đã ngăn trở sự bắt đầu của hai người

Chuyên mục: Hỏi Đáp