Cố giáo sư George J. Stigler là người đạt được danh hiệu giáo sư xuất sắc Charles R. Walgreen, ngành Kinh tế học tại trường Đại học Chicago. Ông cũng là giám đốc của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Nhà nước. Ông đã nhận được giải thưởng Nobel về kinh tế vào năm 1982cho tác phẩm “”Nghiên cứu về cấu trúc công nghiệp, chức năng của các thị trường, nguyên nhân và ảnh hưởng của luật lệ công cộng”

Biên tập viên đã thay đổi bài báo một chút, nhưng chỉ để phản ánh những sự kiện mới hoặc quay trở lại những suy nghĩ ban đầu của Stigler trong bản thảo cuối cùng của ông.

Bạn đang xem: Monopoly là gì

*

Sự độc quyền xảy ra khi một mặt hàng hoặc một loại hình dịch vụ được cung cấp chỉ bởi 1 doanh nghiệp. Trong trường hợp không có sự can thiệp của chính phủ, một nhà độc quyền có thể tự do chọn bất kỳ giá nào họ muốn và thường lựa chọn mức giá đem lại lợi nhuận lớn nhất có thể. Việc nắm giữ thế độc quyền không phải lúc nào cũng đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp so với những doanh nghiệp khác đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trên thị trường, nhất là trong trường hợp có những thị trường nhỏ đến nỗi nó chỉ có thể cung ứng được cho 1 đơn vị doanh nghiệp. Nhưng nếu sự độc quyền trên thực tế đem lại nhiều lợi nhuận hơn so với các doanh nghiệp cạnh tranh, các nhà kinh tế học sẽ kỳ vọng rằng các doanh nghiệp khác sẽ nhảy vào thị trường để thu về mức lợi nhuận cao hơn. Nếu thị trường có đủ đối thủ tham gia, lúc này, sự cạnh tranh sẽ đẩy giá xuống và phá vỡ thế độc quyền.

Trước và trong thời kỳ kinh tế học cổ điển (khoảng 1776-1850), hầu hết mọi người tin rằng, việc thế độc quyền bị phá vỡ là do có sự xâm nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh. Với họ, những nhà độc quyền cuối cùng còn sót lại đều được chính phủ chống lưng trong việc loại trừ các đối thủ. Niềm tin này đã được thể hiện trong một bài viết xuất sắc về sự độc quyền trong quyển Bách khoa toàn thư Penny (1839, tập 15, trang 741):

Từ đó, dường như thuật ngữ độc quyền không bao giờ được sử dụng tới trong luật của nước Anh, trừ khi có một khoản trợ cấp của hoàng gia cho phép một hoặc nhiều người chỉ giao dịch hoặc bán một mặt hàng hoặc vật phẩm nào đó. Nếu một số chủ thể có thể hợp nhất với nhau để sản xuất bất kỳ mặt hàng hay sản phẩm nào và nếu họ thành công trong việc bán sản phẩm đó một cách rộng rãi và gần như là đơn vị duy nhất cung cấp sản phẩm đó, họ sẽ được coi là đơn vị nắm thế độc quyền. Giờ đây, khi những đơn vị này không có được lợi thế từ luật pháp giúp cho họ có thể vượt mặt được những đơn vị khác, rõ ràng họ chỉ có thể cạnh tranh bằng cách bán nhiều hàng hóa hơn đối thủ thông qua việc sản xuất ra những sản phẩm có giá thành rẻ hơn và tốt hơn.

Thậm chí ngày nay, hầu hết các nhà độc quyền quan trọng lâu năm hoặc cận độc quyền ở Hoa Kỳ đều dựa vào các chính sách của chính phủ. Chính phủ hỗ trợ doanh nghiệp trong việc chịu trách nhiệm cố định giá nông sản sao cho nó ở trên mức cạnh tranh, cho quyền độc quyền sở hữu các hệ thống truyền hình cáp ở hầu hết các thị trường, cho việc nhượng quyền độc quyền các tiện ích công cộng, các kênh radio và TV, cho dịch vụ bưu chính độc nhất – Danh sách này vẫn còn tiếp tục tăng lên. Các doanh nghiệp độc quyền tồn tại mà không cần đến sự hỗ trợ của chính phủ thường do quy mô kích thước nhỏ bé của thị trường (người buôn bán duy nhất trong thị trấn) hoặc dựa vào sự lãnh đạo tạm thời trong thời kì đổi mới (Công ty nhôm của Mỹ cho đến Thế chiến II).

Tại sao các nhà kinh tế lại phản đối thế độc quyền? Cuộc tranh luận thuần kinh tế chống lại độc quyền khác xa so với những gì dân không theo ngành kinh tế mong đợi. Các nhà độc quyền thành công tính giá cao hơn mức tiền khi họ phải cạnh tranh để khách hàng trả nhiều tiền hơn cho các nhà độc quyền (và có lẽ cả nhân viên của họ nữa). Điều này có vẻ kì lạ, nhưng các nhà kinh tế thấy không có lý do gì để chỉ trích sự độc quyền, đơn giản vì họ chuyển sự giàu có từ khách hàng sang các nhà sản xuất độc quyền. Đó là bởi vì các nhà kinh tế không có cách nào để biết ai là mới người xứng đáng hơn trong hai bên, nhà sản xuất hay khách hàng. Tất nhiên, mọi người (bao gồm cả các nhà kinh tế) có thể phản đối việc chuyển giao của cải trên trên các phương diện khác, bao gồm cả những người có đạo đức. Nhưng bản thân việc chuyển nhượng đó không được coi là một vấn đề về kinh tế.

Thay vào đó, giả định thuần kinh tế học chống lại sự độc quyền cho rằng nó làm giảm tổng phúc lợi kinh tế (trái ngược với việc nó khiến một số người bị thiệt hại hơn và vì thế số khác được hưởng lợi do tổng của chúng không đổi). Khi nhà độc quyền tăng giá trên mức cạnh tranh để gặt hái lợi nhuận độc quyền, khách hàng sẽ mua ít sản phẩm hơn, sản xuất từ đó ít hơn và toàn bộ xã hội sẽ bị thiệt hại . Nói tóm lại, độc quyền làm giảm thu nhập của cả xã hội. Sau đây là một ví dụ đơn giản.

Hãy xem xét trường hợp của một nhà độc quyền sản xuất sản phẩm của anh ta với một chi phí cố định (trong đó, chi phí có thể bao gồm tỷ lệ lợi nhuận cạnh tranh của anh ta trong khoản đầu tư) $5 trên một đơn vị. Chi phí là 5 đô la cho dù nhà độc quyền có bao nhiêu đơn vị. Số lượng đơn vị anh ta bán, tuy nhiên, lại phụ thuộc vào giá mà anh ta đưa ra. Số lượng đơn vị anh ta bán ở một mức giá nhất định tùy thuộc vàonhu cầu của người tiêu dùng được hiển thị trong Bảng 1.

Nhà độc quyền có được lợi thế tốt nhất khi anh ta giới hạn sản xuất ở mức 200 chiếc, tương đương với việc anh ta bán với giá 7 đô la mỗi chiếc. Sau đó, anh ta kiếm được lợi nhuận độc quyền (cái mà các nhà kinh tế gọi là tiền thuê kinh tế) là 2 đô la mỗi đơn vị (7 đô la trừ đi chi phí 5 đô la của anh ấy, một lần nữa, bao gồm tỷ lệ lợi tức đầu tư cạnh tranh) gấp 200, hay 400 đô la một năm. Nếu anh ta kiếm và bán 300 đơn vị với giá 6 đô la mỗi đơn vị, anh ta kiếm được lợi nhuận độc quyền chỉ 300 đô la (1 đô la cho mỗi đơn vị nhân với 300 đơn vị). Nếu anh ta kiếm được và bán 420 đơn vị với giá 5 đô la mỗi đơn vị, anh ta không kiếm được lợi nhuận độc quyền, chỉ là một khoản hoàn trả công bằng cho số vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Do đó, nhà độc quyền giàu hơn $ 400 vì vị trí độc quyền của mình ở mức giá $ 7.

*

Xã hội, tuy nhiên, sẽ bị thiệt hại .

Khách hàng sẽ vui mừng khi mua thêm 220 đơn vị nếu giá là 5 đô la: biểu cầu cho chúng tôi biết họ định giá thêm 220 đơn vị ở mức giá không giảm xuống còn 5 đô la cho đến khi họ có 420 đơn vị. Chúng ta hãy giả sử 220 đơn vị bổ sung này có giá trị trung bình là 6 đô la cho người tiêu dùng. 220 đơn vị bổ sung này sẽ chỉ có giá 5 đô la mỗi đơn vị, vì vậy người tiêu dùng sẽ nhận được 220 × 1 đô la sự hài lòng nếu giá cạnh tranh là 5 đô la được đặt. Bởi vì nhà độc quyền sẽ trang trải chi phí sản xuất thêm 220 chiếc, anh ta sẽ không mất gì. Do đó, Sản xuất thêm 220 đơn vị, sẽ mang lại lợi ích cho xã hội một khoảng bằng 220 đô la. Nhưng nhà độc quyền chọn không sản xuất thêm 220 đơn vị vì để bán chúng với giá 5 đô la, ông sẽ phải giảm giá cho 200 đơn vị khác từ 7 đô la xuống còn 5 đô la. Nhà độc quyền sẽ mất $ 400 (gấp 200 đơn vị so với mức giảm $ 2 mỗi đơn vị), nhưng người tiêu dùng sẽ kiếm được $ 400 tương tự. Nói cách khác, bán với giá cạnh tranh sẽ chuyển 400 đô la từ nhà độc quyền sang người tiêu dùng và tạo ra thêm 220 đô la giá trị cho xã hội.

Khao khát có được lợi thế cạnh tranh hay kiểm soát của các nhà kinh tế đối với các doanh nghiệp nắm thế độc quyền đã tồn tại trong suốt một thời gian dài. Cho tới cuối năm 1890, khi đạo luật chống độc quyền của Sherman được thông qua, hầu hết các nhà kinh tế học đã tin rằng chính sách chống độc quyền duy nhất chính là giảm thiểu sự can thiệp của chính phủ khi đưa ra các đặc quyền được độc quyền, chẳng hạn như trao cho Công ty Đông Ấn Anh quyền giao dịch với Ấn Độ. Họ đã tưởng rằng những nguồn thống trị thị trường khác đó, chẳng hạn như hiệu quả vượt trội, nên được cho phép hoạt động rộng rãi vì lợi ích của người tiêu dùng bởi họ cuối cùng cũng sẽ được bảo vệ khỏi sự tăng giá quá cao bởi thị trường thực tế hoặc các đối thủ tiềm năng.

Theo truyền thống, thị trường độc quyền được xác định với một người bán duy nhất và cạnh tranh với sự tồn tại của thậm chí một vài đối thủ khác. Nhưng các nhà kinh tế đã trở nên đồng thuận hơn nhiều đối với các chính sách chống độc quyền khi quan điểm của họ về độc quyền và cạnh tranh thay đổi. Với sự phát triển của khái niệm cạnh tranh hoàn hảo, đòi hỏi một số lượng lớn các đối thủ tạo ra hàng hóa giống hệt nhau, nhiều ngành công nghiệp đã được phân loại là độc quyền nhóm (tức là những ngành chỉ có một vài người bán). Với nhóm các nhà độc quyền, các nhà kinh tế tin rằng, chắc chắn tồn tại sức mạnh của thị trường, quyền lực để kiểm soát giá cả, một mình hay có thỏa thuận.

Xem thêm: Hiệu điện Thế Là Gì, Công Thức Tính, đơn Vị đo

Gần đây hơn, giữa bờ vực của việc bị coi là không kiên định, nhiều nhà kinh tế học (bao gồm cả tôi nữa) đã đánh mất cả lòng nhiệt huyết cho chính sách chống độc quyền và gần như là cả nỗi sợ về những nhà độc quyền. Sự ủng hộ cho chính sách chống độc quyền đã bị suy giảm, nguyên nhaanh chính là do chính sách đó đưa ra thường xuyên bị phản đối khi áp dụng. Đạo luật Robinson-Patman, được thiết kế bề ngoài để ngăn chặn sự phân biệt giá (nghĩa là các công ty tính giá khác nhau cho những người mua khác nhau cho cùng một hàng hóa), còn thường được sử dụng để hạn chế sự cạnh tranh, thay vì tăng giá. Luật chống độc quyền đã ngăn chặn nhiều vụ sáp nhập hữu ích, đặc biệt là các vụ sáp nhập dọc. (Sáp nhập dọc xảy ra khi công ty A mua một công ty khác cung cấp đầu vào cho A hoặc bán đầu ra của A). Một công cụ yêu thích của người sành pháp lý là các vụ kiện chống độc quyền tư nhân, trong đó các nguyên đơn thành công được bồi thường thiệt hại gấp ba.

Những doanh nghiệp độc quyền và cận độc quyền nguy hiểm như thế nào? Họ có thể có được bao nhiêu lợi nhuận gia tăng? Một vài bằng chứng cho thấy rằng, các công ty độc quyền và số lượng nhỏ các công ty độc quyền nhóm, có sức mạnh nhất định để kiếm được nhiều hơn so với tỷ lệ cạnh tranh hoàn vốn. Nhiều nghiên cứu đã so sánh tỷ lệ lợi tức đầu tư với mức độ tập trung các ngành công nghiệp (được đo bằng tỷ lệ doanh thu của ngành được thực hiện bởi bốn công ty lớn nhất). Mối quan hệ giữa lợi nhuận và sự tập trung gần như cố định là lỏng lẻo: ít hơn 25% biến động của tỷ lệ lợi nhuận giữa các ngành, có thể được quy cho sự tích tụ ấy.

Một minh họa cụ thể hơn về tác động của số lượng đối thủ lên giá cả có thể được tìm thấy trong nghiên cứu của Reuben Kessel về sự phát hành trái phiếu tiểu bang và trái phiếu địa phương. Các công ty của các chủ ngân hàng đầu tư, đấu thầu quyền bán một khoản trái phiếu thông qua tiểu bang California. Nhà thầu thành công có thể trả giá 98,5 (hoặc 985 đô la cho trái phiếu trị giá 1.000 đô la) và sau đó, tìm cách bán lại cho các nhà đầu tư ở mức giá 100 (1.000 đô la cho trái phiếu 1.000 đô la). Trong trường hợp này, phí bảo lãnh phát hành sẽ là 1,5 (hoặc 15 đô la cho mỗi trái phiếu $ 1.000).

Trong một nghiên cứu về hàng ngàn đợt phát hành trái phiếu, sau khi sửa chữa về kích thước và độ an toàn và các đặc điểm khác của từng đợt, Kessel đã tìm thấy mô hình của phí bảo lãnh phát hành được thể hiện như trong Bảng 2.

Khi có hai mươi người hoặc hơn thế nữa trả giá trở lên, đó là sự cạnh tranh hoàn hảo, có hiệu quả, mức chênh lệch là mười đô la. Chỉ cần tăng số lượng nhà thầu từ một lên hai là đủ để giảm một nửa mức chênh lệch vượt mức so với mức cạnh tranh mười đô la. Do đó, ngay cả một số lượng nhỏ các đối thủ cũng có thể đưa giá xuống gần với mức giá cạnh tranh. Kết quả của Kessel, hơn bất kỳ nghiên cứu nào khác, đã thuyết phục tôi rằng cạnh tranh là một loại cỏ dại, không phải là một bông hoa mỏng manh.

*

Nếu một xã hội muốn kiểm soát độc quyền, ít nhất khi những độc quyền đó không được tạo ra bởi chính phủ, thì nó có ba sự lựa chọn. Đầu tiên là chính sách chống độc quyền của người Mỹ; thứ hai là quy định công cộng; và thứ ba là quyền sở hữu và hoạt động công cộng. Giống như độc quyền, không cái nào trong số này là lý tưởng.

Chính sách chống độc quyền rất tốn kém để thực thi: Phòng chống độc quyền của Bộ Tư pháp có ngân sách 133 triệu đô la năm 2004 và ngân sách của Ủy ban Thương mại Liên bang là $ 183 triệu. Các bị cáo (người cũng phải đối mặt với hàng trăm vụ chống độc quyền tư nhân mỗi năm) có thể chi tiêu gấp mười hoặc hai mươi lần như thế. Hơn nữa, chống độc quyền là một quá trình diễn ra rất chậm. Phải mất nhiều năm trước khi một thực trạng độc quyền được xác định, và nhiều năm nữa để đi đến quyết định; vụ kiện chống độc quyền dẫn đến sự tan rã của Công ty Điện thoại và Điện báo Hoa Kỳ bắt đầu vào năm 1974 và chịu sự quản lý tư pháp cho đến năm 1996.

Quy định công cộng là lựa chọn ưu tiên ở Mỹ, bắt đầu bằng việc thành lập Ủy ban thương mại liên bang vào năm 1887 và mở rộng xuống quy định của thành phố về taxi và các công ty đá. Tuy nhiên, hầu hết các quy định công cộng có tác dụng làm giảm hoặc loại bỏ cạnh tranh hơn là loại bỏ độc quyền. Thị trường cạnh tranh hạn chế, và đang mang lại lợi nhuận cao hơn cho chủ sở hữu xe taxi, là lý do huy chương taxi của Thành phố New York được bán với giá hơn 150.000 đô la vào năm 1991 (tại một thời điểm trong thập niên 1970, một huy chương taxi có giá trị hơn một chỗ trên Sàn trao đổi Chứng khoán New York). Hơn nữa, quy định của các công ty độc quyền tự nhiên (các ngành công nghiệp, thường là các tiện ích, trong đó thị trường chỉ có thể hỗ trợ một công ty ở quy mô hoạt động hiệu quả nhất) đã giảm thiểu một số sức mạnh độc quyền nhưng thường cho thấy sự thiếu hiệu quả nghiêm trọng trong thiết kế và vận hành các tiện ích đó.

Một lý thuyết nổi tiếng trong kinh tế học nói rằng, một nền kinh tế doanh nghiệp cạnh tranh sẽ tạo ra thu nhập lớn nhất có thể từ một nguồn tài nguyên nhất định. Không có nền kinh tế nào thực sự đáp ứng chính xác các điều kiện của lý thuyết đó , và tất cả các nền kinh tế thực sẽ thiếu tính lý tưởng – một sự khác biệt được coi là ‘thất bại của thị trường’. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, mức độ thất bại của thị trường đối với nền kinh tế Mỹ là nhỏ hơn nhiều so với thất bại chính trị phát sinh từ sự không hoàn hảo của các chính sách kinh tế được tìm thấy trong các hệ thống chính trị thực sự. Ưu điểm của laissez-faire, gần như không phải dựa trên nền tảng lý thuyết nổi tiếng của nó, mà là từ lợi thế của nó so với hiệu suất thực tế của các hình thức đối thủ của tổ chức kinh tế.

Độc quyền tự nhiên

David R. Henderson

Loại độc quyền chính, vừa tồn tại vừa không phải do chính phủ tạo ra, được các nhà kinh tế gọi là độc quyền tự nhiên. Độc quyền tự nhiên xuất hiện do tính kinh tế theo quy mô – nghĩa là đơn giá sẽ giảm khi quy mô sản xuất của một công ty dược mở rộng . Khi tính kinh tế theo quy mô trở nên lớn hơn so với quy mô của thị trường, một công ty có thể sản xuất toàn bộ sản lượng của ngành với đơn giá thấp hơn hai hoặc nhiều công ty có thể. Lý do là nhiều công ty không thể khai thác triệt để các tính kinh tế theo quy mô này. Nhiều nhà kinh tế tin rằng, sự phân phối năng lượng điện ( không phải là quá trình sản xuất ra nó) là một ví dụ về độc quyền tự nhiên. Tính kinh tế theo quy mô tồn tại bởi vì một công ty khác muốn tham gia, sẽ cần sao chép các đường dây điện hiện có, trong khi nếu chỉ có một công ty tồn tại, thì sự trùng lặp này sẽ không cần thiết. Và một công ty phục vụ tất cả mọi người sẽ có chi phí cho mỗi khách hàng thấp hơn so với hai hoặc nhiều công ty.

Xem thêm: Tải Game đánh Bài Online Cho điện Thoại, Tải Game đánh Bài Online Cho điện Thoại

Câu hỏi rằng chính phủ có nên quản lý độc quyền hay không, và làm thế nào vẫn đang gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế. Quy định được ưu ái nhất để ngăn chặn độc quyền tự nhiên khỏi việc tính giá theo độc quyền. Các nhà kinh tế khác không muốn có quy định nào vì họ tin rằng, ngay cả các nhà độc quyền tự nhiên cũng phải đối mặt với một số cạnh tranh (ví dụ, các tiện ích điện phải cạnh tranh với các nhà sản xuất điện gió tư nhân, và khách hàng doanh nghiệp đôi khi có thể tự sản xuất điện hoặc mua ở nơi khác), và họ muốn độc quyền tự nhiên để có một động lực mạnh mẽ cắt giảm các nguồn chi phí. Bên cạnh việc điều tiết giá cả, chính phủ thường ngăn chặn các công ty cạnh tranh tham gia vào một ngành được cho là độc quyền tự nhiên. Ví dụ một công ty muốn cạnh tranh với các tiện ích địa phương, không thể làm như vậy một cách hợp pháp. Các nhà kinh tế có xu hướng phản đối việc quản lý gia nhập ngành. Lý do là như sau: Nếu ngành công nghiệp thực sự là độc quyền tự nhiên, thì việc ngăn chặn các đối thủ cạnh tranh mới xâm nhập là không cần thiết bởi vì không có đối thủ cạnh tranh nào muốn tham gia. Mặt khác, nếu ngành công nghiệp không phải là độc quyền tự nhiên, thì việc ngăn chặn cạnh tranh là điều không mong muốn. Dù bằng cách nào, ngăn chặn sự gia nhập ngành không mang lại ý nghĩa gì cả .

Chuyên mục: Hỏi Đáp