Hình tượng nghệ thuật không phải là “bứctranh đời sống” đứng yên mà luôn sống động, lung linh, huyền ảo, vừa giống vừakhông giống cuộc đời thực, vừa vô hình vừa hữu hình, cụ thể đấy mà mơ hồ đấy,như mặt trăng đáy nước, bóng người trong gương, như không gian vốn ba chiều naythu lại trong không gian hai chiều của hội hoạ, như một mái chèo trên hai thướcchiếu sân khấu mà tưởng đang vẫy vùng trước đại dương… Cái ta nhìn thấy trongnghệ thuật vừa là nó lại vừa không phải chính nó. Và để hiểu hơn về hình tượngnghệ thuật em đã chọn đề tài: Khái niệm “hìnhtượng nghệ thuật” và những nét đặc trưng của nó.

Bạn đang xem: Hình tượng văn học là gì

*

Xuất hiện cách đây hơn 2000 năm, hình tượng nghệ thuật được hiểu đơn giảnlà cách mô phỏng thế giới khách quan. Các nhà triết học cổ đại Hi – Lạp, tiêubiểu là Platon và Aristotle. Họ gọi nghệ thuật là “sự mô phỏng tự nhiên”. Ở đây“ tự nhiên” được hiểu là toàn bộ thế giới thực tại: tự nhiên và xã hội. Cong “mô phỏng” là khả năng của nghệ thuật trong việc tái tạo lại các hiện tượngriêng lẻ ấy bằng các loại hình nghệ thuật.
Sau này, Hegel – nhà triết học người Đức, ông cũngchia nhận thức của con người ra làm ba nhóm: triết học nhận thức bằng kháiniệm, tôn giáo nhận thức bằng biểu tượng còn nghệ thuật nhận thức bằng hìnhtượng.
Còn Beilinski – nhà tư tưởng Nga thì phân biệt cụthể hơn, ông cho rằng: “ Nhà triết học nói bằng phép tam đoạn luận, nhà thơ nóibằng các hình tượng và bức tranh…nhà kinh tế chính trị được võ trang bằng cácsố liệu thống kê tác động đến trí tuệ của người đọc và người nghe… Nhà thơ đượctrang bị bằng sự miêu tả bằng sự trang bị sinh động, đạm nét về hiện thực, tácđộng vào trí tưởng tượng các đọc giả của mình, phơi bày trong một bức tranh…Ngườinày chứng minh, người kia phơi bay và cả hai đều thuyết phục, chỉ có điều ngườinày thì bằng các luận chứng logic, còn người kia lại bằng những bức tranh”.
Đó là một số quan điểm của các nhà triết học về nghệ thuật, dù ở những thờikhác nhau nhưng họ đã mang đến một phương thức phán ánh đặc thù của nghệ thuậtđó là hình tượng.
Phạm trù hình tượng là một phạm trù mang tính khái quát phản ánh tính hệthống của các khái niệm, phạm trù qui luật về đặc trưng thẩm mỹ của nghệ thuật.Vì tất cả những lý giải về nghệ thuật đều xuất phát từ vấn đề hình tượng. Như ta đã biếthình tượng nghệ thuật luôn có xu hướng mang ý nghĩa vượt ra ngoài nó, cấu trúcđặc thù này của hình tượng nghệ thuật được tạo bởi nhiều lý do, trong đó có sựkết hợp của hai yếu tố thực và hư, hai yếu tố làm cho chức năng thể hiện ýnghĩa của hình tượng thay đổi, để hình tượng không chỉ là sự sao chép đơn giảnđời sống mà còn có khả năng biểu hiện những ý nghĩ chủ quan của con người,không chỉ khêu gợi sự tưởng tượng sáng tạo mà còn mở rộng khả năng tự cảm thấycủa con người về thế giới và chiều sâu cuộc sống.
– Hình tượng là hình thức đặc thù của tư duy nghệthuật, là sự phản ánh hiện thực trong tính toàn vẹn, sinh động, cảm tính, cụthể theo qui luật của cái đẹp.– Hình tượng là cơ cấu hài hoà của những yếu tố chủ quan và khách quan, cảmtính – lý tính, cụ thể – khái quát, cá biệt – phổ biến; nhưng được trình bàybằng con đường thông qua cái khách quan, cái cảm tính, cụ thể, cá biệt để pháthiện cái chủ quan, cái lý tính, cái khái quát, cái phổ biến. Trong tất cả các yếu tố tạo thành hình tượng nghệthuật nói trên, thì yếu tố cảm xúc – cá biệt mang tính cách cá nhân của chủ thểsáng tạo là quan trọng nhất. Tư duy hình tượng – cảm tính: này sinh trêncơ sở tiếp xúc trực tiếp với đối tượng. Nó tái hiện đối tượng một cách toàn vẹnnhững không thoát li đối tượng mà gắn liền với những đặc điểm cụ thể, cá biệt,sinh động về đối tượng để qua đó mà bộc lộ cái khái quát. Loại tư duy này baohàm cả thái độ đánh giá chủ quan của chủ thể. Nghệ thuật tái hiện và khái quátcuộc sống dựa trên cơ sở của loại tư duy này. Nói một các cụ thể, nghệ sĩ xâydựng nên hình tượng nghệ thuật dựa trên cơ sở các loại tư duy hình tượng – cảmtính, và hình tượng nghệ thuật chính là sự biểu hiện những quan niệm khái quátvề cuộc sống dưới hình thức cụ thể, cảm tính như hình thức của bản thân đờisống.
Có thể coi như đó là cái phôi, cái tế bào đầu tiên để tạo nên hình tượng vàhình tượng là cơ sở để hình thành tác phẩm nghệ thuật.để con người cảm thụ, đánh giá, sáng tạo theo qui luật của cái đẹp.
– Theo nghĩa rộng: Khái niệm hinh tượng chỉ đặc điểm chung về phương thứcphản ánh đời sống của tất cả các loại hình nghệ thuật, để phân biệt nghệ thuậtvới khoa học và các hình thức ý thức xã hội khác.
– Theo nghĩa hẹp: Khái niệm hình tượng được dùng trong phạm vi tác phẩm,chủ yếu là hình tượng cụ thể về một con người, một tập thể người, một con vật,đồ vật hay một cảnh sắc thiên nhiên, một cảnh sinh hoạt lao động thườngngày,…Tất cả mọi thứ dù tầm thường nhất khi đi vào nghệ thuật đều có thể trởthành hình tượng, một khi nó mang trong mình những quan niệm sống, những trảinghiệm cuộc đờ, những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Để mỗi hình tượng được tái hiện vàtồn tại, người nghệ sĩ phải sử dụng những phương tiện vật chất cụ thể như: ngôntừ (văn học), âm thanh (âm nhạc), màu sặc, đường nét (hội họa), lời nói, hànhđộng (sân khấu),… Nhờ đó, khi khám phá nghệ thuật, người ta không những đượccảm thụ, thưởng thức cái đẹp, được tiếp cận với nguồn tri thức vô hạn của nhânloại mà đồng thời, qua đó người ta còn được tiếp nhận những chân lí về đờisống. Đây chính là biểu hiện đỉnh cao của hình tượng, là cái đích mà bất cứngười nghệ sĩ nào trong suốt cuộc đời theo đuổi sự nghiệp nghệ thuật, theo đuổicái đẹp, cái hoàn mĩ của mình cũng muốn đạt được.
Nhắc đến hai chứ nghệ thuật đôi khi ngườita nhầm tưởng nó là hiện thân của những cái hoa mĩ, diễm lệ, của những thứ lãngmạn, viển vông, xa rời thực tế, nhưng thực chất nghệ thuật luôn đi liền với đờithực, nó bám sát cuộc sống, nó dựa hơi người, đời, vật để nảy sinh, tồn tại vàtrường tồn cùng thời gian. Nghệ thuật luôn gần gũi với cuộc đời, sống trongcuộc đời, phát triển theo nhịp sống của cuộc đời như một người bạn đồng hànhtận tụy, một người thư ký trung thành của thời đại.
Hình tượng nghệ thuật tái hiện cuộc sốngnhưng lại không đơn thuần là sao chép y nguyên những hiện tượng có thật mà làtái hiện một cách có chọn lọc, sáng tạo thông qua tài năng và trí tưởng tượngcủa nghệ sĩ, bằng sự khéo léo và tinh tế của mình, họ biến những sự vật dù tầmthường nhất trở thành các hình tượng đẹp có sức truyền cảm mạnh mẽ, mang nhữngấn tượng sâu sắc đến với người cảm thụ.

Xem thêm: Fold Là Gì

Đây là nét đặc trưng tiêu biểu nhất và dấuhiệu dễ nhận biết nhất của hình tượng nhưng đồng thời cũng quan trọng nhất đểphân biệt sự khác nhau giữa hình tượng và khái niệm. Mọi sự vật, hiện tượngtrong thể giới khách quan đều tồn tại ở dạng riêng biệt, là một cá thể độc lập,cụ thể. Ngay chính bản thân con người cũng tồn tại là những cá nhân cụ thể, độcđáo, không lặp lại. Song không phải vì thế mà chúng sống tách rời, riêng rẽ,mọi sự vật hiện tượng chỉ có tồn tại được khi chúng được đặt trong mối liên hệvới những sự vật, hiện tượng khác xung quanh. Vì vậy, trong mỗi hiện tượng, sựvật cá biệt đều chứa đựng sự thống nhất giữa hai mặt đối lập nhau: cái chung vàcái riêng. Nghĩa là, nó mang những dấu hiệu cụ thể, cá biệt, không lặp lại ởnhững hiện tượng khác, lại vừa mang những đặc điểm bản chất đại diện cho nhữnghình tượng cũng loại, điển hình cho loại của mình. Một người nghệ sĩ xuất sắchay một nhà bác học tài năng cũng đều phải biết nắm bắt những gì chủ yếu thuộcvề bản chất của sự vật, hiện tượng, để biết tập trung sự chú ý của mình vàonhững sự kiện, những quá trình của sự vật, hiện tượng mà trong đó bộc lộ đầy đủnhất ý nghĩa của đối tượng mình nghiên cứu và khám phá.
Thay vì tiếp cậnchân lí bằng cách gặt bỏ những chi tiết cụ thể, cá biệt, những yếu tố ngầunhiên, tách rời những thuộc tính chung, điển hình của sự vật, hiện tượng rakhỏi những đặc điểm cụ thể, những yếu tố riêng lẻ để đúc kết thành quy luậttổng quát dưới dạng công thức, khái niệm, phạm trù; thì nghệ thuật khái quátchân lí cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật không bao giờ tách khỏi những hiệntượng cụ thể, cá biệt. Nếu như khoa học sử dụng những sự vật, hiện tượng cụ thểchỉ để làm ví dụ minh họa cho các thuộc tính, quy luật được khái quát được rõràng và dễ hiểu hơn thì nghệ thuật dùng những hình tượng cụ thể, cá biệt mangtính điển hình để làm đại diện cho cái lớn lao, cái toàn thể. Điều này được thểhiện rất rõ trong lĩnh vực văn học: “Chí Phèo” của Nam Cao là một tác phẩm điểnhình với hai hình tượng nhân vật tiêu biểu là Chí Phèo và Bá Kiến. Bằng ngòibút sắc bén của mình, Nam Cao sử dụng ngôn từ để vẽ lên chân dung Chí – một anhnông dân lành như cục đất, thế nhưng từ bốn bức tường lao lí ra cuộc đời Chí đãtrở thành một “con quỷ” của làng Vũ Đại. Chí mang những nét tính cách riêng, cábiệt mà chẳng ai có được: hắn mãi chìm sâu trong cơn say, ngủ trong lúc say. Cứmỗi lần say là hắn chửi, tiếng chửi của hắn trở thành nỗi ám ảnh trong lòngngười đọc. Nam Cao đã xây dựng nhân vật Chí như một chân dung điển hình chonhững người nông dân bế tắc lâm vào bước đường cùng để rồi mất dần đi cả nhânhình, nhân phẩm, họ phản kháng lại xã hội, phản kháng lại bất công của cuộc đờibằng con đường lưu manh hóa. Bên cạnh chân dung một anh Chí lưu manh là hìnhảnh của Bá Kiến – tên Lý trưởng hách dịch. Nam Cao đã dựng lên chân dung tênđịa chủ với những nét vẽ sinh động, đầy ấn tượng và mang tính điển hình cao:giọng quát “rất sang”, “cái cười Tào Tháo”, giọng nói “ngọt nhạt”, những thủđoạn thống trị khôn ngoan “mềm nắn rắn buông”, “bắm thằng có tóc không ai bámthằng trọc đầu”, bóp người ta thì “chỉ bóp đến nửa chừng”, “hãy ngầm ngầm đẩyngười ta xuống sông rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”,… Tất cả những chi tiếttrên đã đủ để Bá Kiến trở thành hình tượng điển hình cho bọn địa chủ, cường hàophong kiến của xã hội cũ với bản chất gian hùng, nham hiểm, độc ác và cáo già.
Từ chính đặc điểm này mà hình tượng nghệthuật có khả năng tái hiện lại cuộc sống một cách hoàn chỉnh và toàn vẹn. Vậynên, khi tiếp xúc với những tác phẩm nghệ thuật, ta như được tậm mắt chứngkiến, được tham gia vào câu chuyện đời thực mà tác giả đề cập.
Bằng những hìnhtượng cụ thể, sinh động mang tính điển hình, nghệ thuật đã truyền đến con ngườikhông chỉ những thông tin, những kiến thức mới mẻ về cuộc sống mà còn đem đếncho họ những xúc cảm mới lạ, gọi dậy những tình cảm thiêng liêng khiến conngười ta nghĩ tốt và sống đẹp hơn, có ích hơn. 3.3
Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữahai mặt khách quan và chủ quan.
Nghệ thuật là hình ảnh của cuộcsống khách quá được phản chiếu qua đôi mắt chủ quan của người nghệ sĩ đa cảm,tinh tế, sâu sắc . Nghệ thuật là hình ảnhcủa cuộc sống khách quá được phản chiếu qua đôi mắt chủ quan của người nghệ sĩđa cảm, tinh tế, sâu sắc. Trong nghệ thuật, yếu tố chủ quan chi phối đến cả quátrình sáng tạo của tác giả, hơn thế tính chất chủ quan còn in dấu rõ nét trênmỗi tác phẩm nghệ thuật, và chính điều đó làm đã làm nên phong cách riêng củangười nghệ sĩ. Nghệ thuật phản ánh thế giới khách quan qua cái nhìn chủ quancủa người nghệ sĩ. Vì vậy, trong một tác phẩm nghệ thuật luôn có sự hòa quyệnkhông thể tách rời của hai yếu tố khách quan và chủ quan.
Ví dụ: Tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật chính làchị Dậu và gia đình đang trong mùa sưu thuế; một điển hình của cuộc sống bầncùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩmTắt đèn không chỉ phản ánh được sự hống hách, bất nhân, tàn nhẫn của bộ máyquan lại đương thời, mà còn cho thấy những phẩm chất cao quý của người nôngdân, được coi là những kẻ ở dưới đáy xã hội qua hình ảnh chị Dậu. Dù họ có bịtần lớp thống trị lấn át, và dù cuộc sống của họ có tăm tối, cùng quẫn đến mứcnào cũng không thể khiến họ đánh mất những đức tính cao đẹp vốn có, nhưng đồngthời cũng thể hiện sức phản kháng tiềm tàng mạnh mẽ của những người nông dânnghèo. Và dù khi câu chuyện kết thúc, chị Dậu vẫn không thoát khỏi cuộc đời tămttối của mình, nhưng qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ, Ngô Tất Tố đã nêu lên mộtquy luật tự nhiên rằng: ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, và có lẽ đoạntrích trên chính là dấu hiệu báo trước cho cuộc cách mạng năm 1945.
Như vậy, trong quá trình sáng tạo nghệthuật, người nghệ sĩ đặt tình cảm chủ quan của bản thân vào trong chính hìnhtượng mình xây dựng. Hình tượng nghệ thuật do đó không chỉ phản ánh hiện thựcmà còn biểu hiện thái độ chủ quan của người nghệ sĩ đối với hiện thực ấy. 3.4Hình tượng nghệ thuật là sự thống nhất giữa lí trí và tình cảm. So với những hình thái ý thức xã hộikhác, nghệ thuật có sức tác động kỳ diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người . So với những hình thái ý thức xã hội khác, nghệ thuật có sứctác động kỳ diệu đến tư tưởng, tình cảm của con người. Sự ám ảnh kỳ lạ của nócó thể khiến cho con người ta dù ở thế hệ nào, thời đại nào, tầng lớp nào cũngđều bị cuốn theo những ấn tượng về xúc cảm đó, để rồi cứ thế say mê, thèm muốnhai chứ “nghệ thuật”. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lí trí và tình cảm là nhântố đưa các tác phẩm nghệ thuật trở thành những kiệt tác trường tồn cùng thờigian. Một tác phẩm càng chứa đựng nhiều cung bậc cảm xúc thì càng dễ đi vàolòng người vì vậy mà càng dễ chiến thắng cái khắc nghiệt của không gian vàthoát khỏi quy luật bào mòn của thời gian.
Chắc hẳn không ít người đã từng rơi nướcmắt khi đọc những trang văn cảm động viết về cảnh đời bất hạnh, hẳn không ítngười thấy bâng khuâng xao xuyến khi nghe một bản nhạc hay về tình quê, tìnhngười, hẳn không ít người phải bàng hoàng, thờ thẫn khi đứng trước những bứctranh làm sống dậy một thời tuổi thơ đẹp đẽ,… Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều mangđến cho người cảm thụ chúng những cảm xúc riêng, có quen, có lạ, có tốt, cóxấu, điều đó không chỉ phụ thuộc vào cách diễn đạt của người nghệ sĩ mà còn ởcái cách tiếp nhận của mỗi người… Và, mang được cảm xúc của mình truyền đến mọingười, đó chính là thành công lớn nhất của người nghệ sĩ.
Từ tất cả những điều trên, ta cóthể khẳng định một cách khái quát rằng, trong hình tượng nghệ thuật, tình cảmkhông những đối lập với lí trí mà chúng còn có quan hệ trống nhất chặt chẽ vớinhau. Tình cảm được kiểm định bằng lí trí, lí trí mượn tình cảm để đi vào lòngngười. Đó là sự kết hợp hoàn hảo giữa tình cảm và lí trí trong một chỉnh thểnghệ thuật
Ước lệ là biện pháp tái hiện sự vật, hiệntượng bằng hình tượng có tính quy ước. Nghệ thuật được hiểu là một cách thức môphỏng lại cuộc sống. Song, dù phản chiếu cuộc sống chân thực đến đâu nghệ thuậtcũng không thể mất đi yếu tố sáng tạo, tưởng tượng trong mỗi tác phẩm mà tất cảnhững yếu tố ấy gọi chung là tính ước lệ của hình tượng. Không có tính ước lệ,nghệ thuật sẽ chỉ là một bản sao đơn điệu của cuộc sống, sẽ chỉ là cái khuônđúc khô cứng không có hơi thở của sự sống. Nghệ thuật tái hiện cuôc sống mộtcách có chọn lọc, có sáng tạo bằng hoạt động hư cấu trông qua trí tưởng tượngcủa nghệ sĩ. Kết quả của quá trình đó là những hình tượng nghệ thuật mang tínhước lệ. Người nghệ sĩ thực sự tài năng là người có thể mang cả cái hơi thở phậpphồng của sự sống vạn vật vào trong tác phẩm của mình.
Cuộc sống luôn vận động và phát triển nókhông bị giới hạn bởi không gian và thời gian, trong khi nghệ thuật lại chịu sựchi phối về giới hạn của ngôn từ. Mà nhiệm vụ của nghệ thuật là phải khái quátđược phạm vi rộng lớn của hiện thực cả về chiều rộng và chiều sâu mà vẫn khôngphá vỡ tính hoàn chỉnh, toàn vẹn của tổng thể tác phẩm. Bởi vậy, sự xuất hiệncủa tính ước lệ như một lối thoát cho người nghệ sĩ. Bằng hình tượng nghệ thuậtmang tính ước lệ, người nghệ sĩ có thể thả sức sáng tạo. Song, tính ước lệkhông đồng nghĩa với việc xa rời thực tế, càng không hề đồng nghĩa với việcxuyên tạc sự thực, chân lí. Ngược lại, nhờ tính ước lệ mà nghệ thuật có thểphản ánh chân thực cuộc sống, nhờ tính ước lệ mà bản chất cuộc sống được thểhiện một cách đầy đủ về cả chiều rộng và chiều sâu.
Xuất hiện khá nhiều và trở thành nét điểnhình không thể thiếu, tính ước lệ của hình tượng nghệ thuật trở thành một đặcđiểm nổi bật trong văn học cổ Việt Nam. Người xưa thường dùng hình ảnhphong, hoa, tuyết, nguyệt, cây, cỏ,… để diễn tả ngoại hình, dáng vẻ, cốt cách,phẩm giá của con người. Hình ảnh cây thông (cây tùng) bốn mùa có tán lá xanhtươi, quanh năm đứng vững chãi trên dốc núi cheo leo bất chấp bão bùng sươngtuyết là hiện thân cho nhân cách cứng cỏi, bản lĩnh phi thường, khí phách hiênngang của con người không bị chi phối trước uy quyền, danh lợi. Hay hình ảnhnhững bông hoa mỏng manh, yêu đuối nhưng thơm ngát, tinh khôi thường để miêu tảngười phụ nữ đẹp. Đó là những sáng tạo nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ cao.Phương pháp nghệ thuật cổ không miêu tả hiện thực theo dạng tả chân thực, theothẩm mĩ văn học cổ dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng đem lại cho lời văn lời thơtrang nhã, bóng bẩy, súc tích. Ví dụ: Trong bài Chiều tối của Hồ Chí Minh có viết:
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc củavăn chương. Khung cảnh buổi chiều về tối thường dễ sinh tình vì thế, buổi chiềuđã đi vào bao áng thơ kim cổ, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổđiển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thờigian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ. Ơ đây bằng vài nét chấm phá củabút pháp ước lệ tượng trưng tác giả đã dựng nên bức phông lớn làm nền cho cảnhchiều.
Ở những câu thơtrên ta thấy, “Cánh chim” và “chòm mây” là hai hình ảnh quen thuộc thường xuấthiện trong thơ chiều xưa và nay. Cho nên, đó chỉ là hai hình ảnh của không gianmà đã mang theo ý nghĩa của thời gian. Cánh chim ở đây được lấy từ thế giớinghệ thuật cổ phương Đông. Trong thế giới thẩm mỹ ấy, hình ảnh cánh chim bay vềrừng đã ít nhiều có ý nghĩa biểu tượng ước lệ diễn tả cảnh chiều: “Phi yến thulâm”; “Quyện điểu quy lâm” là những nhóm từ thường thấy trong thơ chữ Hán.Trong “Truyện Kiều”, khi miêu tả cảnh chiều, Nguyễn Du đã điểm vào bức tranhhình ảnh cánh chim bay về rừng: “Chim hôm thoi thót về rừng”. Trong thơ BàHuyện Thanh Quan cũng thế: “Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi” và Huy Cận lại cảmthấy bóng chiều như đang sà xuống từ cánh chim đang nghiêng dần về cuối chântrời: “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”.
Hình như trongcảm nhận của các thi nhân xưa thì khi miêu tả cảnh chiều mà không có hình ảnhcánh chim thì bóng chiều chưa rõ. Cánh chim trong thơ xưa thường chỉ là một chitiết nghệ thuật thuần tuý để gợi tả cảnh chiều thế thôi và thường gợi nên cảmgiác về sự xa xăm, phiêu bạt, chia lìa:
Chúng ta đều nhận thấy cánh chim trong thơ của Lí Bạch và Liễu Tông Nguyênđều “Phi tuyệt”, “Phi tận”. Tất cả đều không có điểm dừng mà ở vào trạng tháibay vào chốn xa xăm, vô tận, gợi lên một ý niệm siêu hình nào đó. Còn cánh chimtrong bài thơ “Chiều tối” của Bác lại có phương hướng, điểm dừng, mục đích bayrõ ràng:
Như vậy, Bác đã đưa cánh chim từ thếgiới siêu hình trở về với thế giới hiện thực. Ta nhận thấy trong cách nhìn củaBác là một cách nhìn đầy yêu thương, trìu mến trước biểu hiện nhỏ nhoi của sựsống. Nhìn cánh chim đang bay, Bác cảm nhận được sự mệt mỏi của đôi cánh saumột ngày đường hoạt động. Trong chiều sâu tâm hồn của Bác chính là lòng yêuthương sự sống, cảm quan của Bác chính là cảm quan nhân đạo.

Xem thêm: Linq Là Gì – Linq Trong Lập Trình C#

Hẳn vậy, tính ước lệ của hình tượng cho phép nghệ thuật tái hiện chânthực mà không lặp lại hay sao chép cuộc sống, làm cho hình tượng trở nên sinhđộng, hấp dẫn, vừa thực lại vừa hư, vừa ẩn lại vừa hiện, khiến ta không thểđồng nhất nó với bản thân cuộc sống. Nhớ tính ước lệ mà hình tượng nghệ thuậtmang tính hàm súc cao, nó có thể truyền đạt được những nội dung cuộc sống phongphú trong một bức tranh, một pho tượng, một vở kịch, một bản nhạc, một bộ phim,hay chỉ trong một câu truyện ngắn,…
Nghệ thuật là một trong những lĩnh vựcsáng tạo phức tạp nhất của con người để phản ánh thực tại. Sản phẩm của quátrình sáng tạo đó là những hình tượng nghệ thuật chứa đựng trong bản thân nó sự thống nhấtbiện chứng giữa các mặt đối lập: hiện thực khách quan hòa nhập với thế giới chủquan; tình cảm được soi sáng trong lí trí; sự thật cuộc sống được phản ánhtrong cái ước lệ, tượng trưng,… Sự thống nhất giữa các mặt đối lập đã làm chohình tượng nghệ thuật trở thành một tín hiệu đặc biệt chứa đựng những thôngđiệp về cuộc sống, lưu giữ những tín hiệu chồng chéo về cuộc đời.
Bởi vậy, mộthình tượng nghệ thuật có thể đem đến cho người thưởng thức những cách nhìnnhiều chiều, những cách lí giải ở nhiều góc độ khác nhau. Đó chính là tính đanghĩa của hình tượng nghệ thuật. Tính đa nghĩa cũng là một trong những đặc điểmnổi bật làm nên tính khác biết giữa hình tượng nghệ thuật với các khái niệmkhoa học. Nếu như khái niệm khoa học chỉ có một nghĩa và phải rõ ràng thì trongnghệ thuật, một hình tượng được coi là điển hình và xây dựng thành công là khinó có khả năng chứa đựng, bao hàm nhiều tầng nghĩa mà khi càng tìm hiểu ngườita càng phát hiện ra những lớp ý nghĩa sâu xa hơn. Đôi khí có những ý nghĩa cònnằm ngoài ý đồ sáng tạo của người nghệ sĩ. Nguyên lí “Tảng băng trôi” củaHemingway là một khẳng định vững vàng cho tính đa nghĩa của hình tượng nghệthuật.
Người nghệ sĩ dùng hình tượng nghệ thuật đểnhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng và tình cảm của mình, nhờnhững hình tượng đó mà sự vật hiện tượng được tái hiện một cách sinh động nhưngđồng thời cũng nhờ nó mà cái tâm, cái tài người nghệ sĩ được thể hiện một cáchtròn đầy và vẹn nguyên nhất. Hình tượng nó không chỉ là phương thức tái hiệnthế giới khách quan, là nhân tố góp phần truyền tải thông điệp của tác giả tớimọi người mà còn là tâm hồn, bản ngã của người nghệ sĩ, nó khẳng định phongcách, cái tôi của người nghệ sĩ.

Chuyên mục: Hỏi Đáp