Thị trường tài chính

*

Thị trường đại chúng Sàn giao dịch Chứng khoán Thị trường trái phiếu Định giá trái phiếu Trái phiếu doanh nghiệp Thu nhập cố định Trái phiếu chính phủ Trái phiếu chuyển đổi Nợ lãi suất cao Trái phiếu đô thị Thị trường cổ phiếu Cổ phiếu phổ thông Cổ phiếu ưu đãi Cổ phần đăng ký Cổ phiếu Chứng nhận cổ phần Sàn giao dịch chứng khoán Cổ phần có quyền biểu quyết Thị trường phái sinh Phái sinh tín dụng Sàn giao dịch tương lai Chứng khoán lai Chứng khoán hóa Thị trường OTC Hợp đồng kỳ hạn Hợp đồng quyền chọn Thị trường giao ngay Hợp đồng hoán đổi Thị trường ngoại hối Tiền tệ Tỷ giá hối đoái Các thị trường khác Thị trường hàng hóa Thị trường tiền tệ Thị trường tái bảo hiểm Thị trường địa ốc Mua bán trên thực tế Thanh toán bù trừ Các bên tham gia thị trường tài chính Quy định tài chính Hệ thống Tài chính Ngân hàng và hoạt động ngân hàng Tài chính doanh nghiệp Tài chính cá nhân Tài chính công cộng
xts

Nghĩa vụ nợ thế chấp (CDO) là một loại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản (ABS) được cấu trúc với nhiều “đợt” được phát hành bởi các thực thể mục đích đặc biệt và được đảm bảo bằng các nghĩa vụ nợ bao gồm trái phiếu và các khoản vay. Mỗi đợt cung cấp một mức độ khác nhau của rủi ro và hoàn vốn để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư. Giá trị và các thanh toán của CDO có nguồn gốc từ một danh mục đầu tư các tài sản cơ sở thu nhập cố định. Chứng khoán CDO được chia thành các lớp rủi ro khác nhau, hoặc các phân ngạch, theo đó các phân ngạch “cao cấp” được coi là chứng khoán an toàn nhất. Các khoản thanh toán tiền lãi và vốn gốc được thực hiện theo thứ tự thâm niên, do đó các phân ngạch ít thâm niên hơn được chào với thanh toán cuống lãi (và lãi suất) cao hơn hoặc giá thấp hơn để bù đắp cho rủi ro tín dụng bổ sung.

Mục lục

1 Tóm lược 2 Tạo ra CDO 3 Lịch sử và phát triển thị trường 4 Khái niệm 5 Các cấu trúc 6 Việc chịu thuế của các CDO 7 Các loại CDO 7.1 Dựa trên tài sản cơ sở 7.2 Các loại CDO khác 8 Các loại tài sản thế chấp 9 Các bên tham gia nghiệp vụ 9.1 Các nhà đầu tư 9.2 Bảo lãnh phát hành 9.3 Người quản lý tài sản 9.4 Người được ủy thác và quản lý tài sản thế chấp 9.5 Các kế toán 9.6 Các luật sư 10 Khủng hoảng vay thế chấp dưới chuẩn 11 Xem thêm 12 Chú thích 13 Tham khảo

Tóm lược

Trong thuật ngữ đơn giản, một CDO có thể được coi như một lời hứa chi trả các dòng tiền cho nhà đầu tư theo một trình tự quy ​​định, dựa trên lượng tiền mặt mà CDO này thu thập từ nhóm các trái phiếu hoặc nhóm các tài sản khác mà nó sở hữu. Nếu tiền mặt được thu thập bởi CDO này là không đủ để chi trả cho tất cả các nhà đầu tư của nó, những người trong các tầng (đợt) thấp bị thiệt hại đầu tiên.

Tạo ra CDO

CDO có thể được tạo ra miễn là các nhà đầu tư toàn cầu sẵn sàng cung cấp tiền để mua nhóm các trái phiếu do CDO sở hữu. Khối lượng CDO tăng trưởng đáng kể trong giai đoạn 2000-2006, sau đó giảm mãnh liệt sau cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn, bắt đầu vào năm 2007. Nhiều tài sản được nắm giữ bởi những CDO này là các trái phiếu vay thế chấp dưới chuẩn. Các nhà đầu tư toàn cầu đã bắt đầu dừng tài trợ các CDO trong năm 2007, góp phần vào sự sụp đổ của các khoản đầu tư có cấu trúc được nắm giữ bởi các ngân hàng đầu tư lớn và sự phá sản của một số người cho vay dưới chuẩn.[1][2]

Một số ít học giả, nhà phân tích và nhà đầu tư như Warren Buffett và cựu kinh tế trưởng của IMF Raghuram Rajan cảnh báo rằng các CDO, chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản khác và các phái sinh khác làm lây lan rủi ro và sự không chắc chắn về giá trị của các tài sản cơ sở rộng hơn, chứ không phải là giảm rủi ro thông qua đa dạng hóa. Sau sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn trong năm 2007, quan điểm này đã thu được sự tín nhiệm đáng kể. Các cơ quan xếp hạng tín dụng đã không hạch toán đầy đủ những rủi ro lớn (như sự sụt giá toàn quốc của giá trị nhà ở) khi đánh giá các CDO và ABS khác với cấp cao nhất có thể.

Nhiều CDO là neo theo thị trường và do đó trải nghiệm các ghi giảm đáng kể do giá trị thị trường của chúng sập đổ trong cuộc khủng hoảng dưới chuẩn, với các ngân hàng ghi giảm giá trị các nắm giữ CDO của họ chủ yếu trong giai đoạn 2007-2008.

Lịch sử và phát triển thị trường

CDO đầu tiên được ngân hàng hiện nay không còn tồn tại là Drexel Burnham Lambert Inc. phát hành năm 1987 cho Imperial Savings Association, một tổ chức tiết kiệm sau này cũng đã mất khả năng chi trả và được tiếp quản bởi Resolution Trust Corporation ngày 22 tháng 6 năm 1990. [3][4][5] Một thập kỷ sau, các CDO nổi lên như khu vực phát triển nhanh nhất của thị trường chứng khoán tổng hợp được đảm bảo bằng tài sản.

Bạn đang xem: Cdo là gì

Xem thêm: Mậu Dịch Là Gì – Phi Những Thông Tin Bạn Cần Biết

Xem thêm: Ý Nghĩa Và Nguồn Gốc Ngày Valentine Trắng 14/3 Là Ngày Gì

Sự tăng trưởng này có thể phản ánh sự hấp dẫn ngày càng tăng của CDO đối với một lượng ngày càng tăng các nhà quản lý tài sản và các nhà đầu tư, hiện nay bao gồm các công ty bảo hiểm, các quỹ tương hỗ, các đơn vị tín thác, các tín thác đầu tư, các ngân hàng thương mại, các ngân hàng đầu tư, các nhà quản lý quỹ hưu trí, các tổ chức hoạt động ngân hàng tư nhân, các CDO khác và các phương tiện đầu tư cấu trúc.

Các CDO cung cấp hoàn vốn đôi khi cao hơn 2-3 điểm phần trăm so với trái phiếu công ty với xếp hạng tín dụng như nhau. Nhà kinh tế Mark Zandi của Moody”s Analytics đã viết rằng các yếu tố khác nhau đã giữ lãi suất thấp trên toàn cầu trong những năm CDO tăng trưởng khối lượng, do những lo ngại về tình trạng giảm phát, sự bùng nổ của bong bóng dot-com, suy thoái kinh tế Mỹ, và thâm hụt thương mại của Mỹ. Điều này làm cho các CDO Mỹ được hỗ trợ bởi các khoản vay thế chấp trở thành một khoản đầu tư tương đối hấp dẫn hơn so với, chẳng hạn như, trái phiếu kho bạc Mỹ hoặc các đầu tư an toàn, lợi suất thấp khác. Việc tìm kiếm lợi suất này của các nhà đầu tư toàn cầu làm cho nhiều người mua các CDO theo sự tin tưởng vào xếp hạng tín dụng mà không có sự hiểu biết đầy đủ các rủi ro.[6]

Phát hành CDO đã tăng từ khoảng 20 tỷ USD vào quý 1 năm 2004 đến mức đỉnh trên 180 tỷ USD vào quý 1 năm 2007, sau đó giảm trở lại dưới 20 tỷ USD vào quý 1 năm 2008. Hơn nữa, chất lượng tín dụng của các CDO giảm từ 2000-2007, vì mức độ nợ vay thế chấp dưới chuẩn và không chuẩn khác tăng từ 5% lên 36% các tài sản của CDO; nhưng các xếp hạng tín dụng của các CDO này không thay đổi.[7] Ngoài ra, các đổi mới tài chính như hoán đổi rủi ro tín dụng và các CDO tổng hợp cho phép đầu cơ trên CDO. Điều này đã làm tăng mạnh lượng tiền di chuyển giữa các thành viên tham gia thị trường. Trong thực tế, nhiều hợp đồng bảo hiểm hoặc đặt cược có thể được xếp chồng lên nhau trên cùng một CDO. Nếu CDO không thể thực hiện theo các yêu cầu được thỏa thuận, một bên đối tác (thường là ngân hàng đầu tư lớn hay quỹ phòng hộ) đã phải trả cho bên kia. Michael Lewis gọi đầu cơ này như một phần của “Doomsday Machine” (cỗ máy tận thế) đã góp phần vào sự thất bại của các tổ chức ngân hàng lớn và các quỹ phòng hộ nhỏ hơn, tại cốt lõi của cuộc khủng hoảng vay thế chấp dưới chuẩn.[8] Có những cáo buộc rằng ít nhất một quỹ phòng hộ khuyến khích việc tạo ra các CDO chất lượng kém để các cá cược có thể được thực hiện đối với chúng.[9][10][11]

Sự sẵn sàng tạo ra CDO và bán chúng cho các nhà đầu tư cũng có thể phản ánh biên lợi nhuận lớn hơn mà các CDO cung cấp cho các tổ chức khởi tạo ra chúng, chẳng hạn như các ngân hàng đầu tư lớn và các thành viên khác trong hệ thống ngân hàng bóng tối, cũng như trong hệ thống ngân hàng lưu ký truyền thống. Lợi nhuận của các ngân hàng đầu tư và cơ quan xếp hạng tín dụng tăng mạnh trong những năm dẫn đến cuộc khủng hoảng.[12] Từ 2000-2006, tài chính cấu trúc (trong đó bao gồm CDO) chiếm 40% doanh thu của các cơ quan xếp hạng tín dụng. Trong thời gian đó, một cơ quan xếp hạng tín dụng lớn đã tăng cổ phiếu của nó gấp sáu lần và thu nhập của nó đã tăng 900%. [13]

Hơn nữa, các ngân hàng lưu ký sử dụng các CDO là một hình thức chứng khoán hóa, có nghĩa là ngân hàng không phải nắm giữ các khoản vay nó đã tạo ra trên sổ sách của mình và có thể chuyển chúng (cùng với rủi ro liên quan) cho các nhà đầu tư. Điều này cho phép các ngân hàng cho vay một lần nữa, mà vẫn giữ được sự phù hợp với các yêu cầu pháp luật về vốn và tạo ra các phí khởi lập hồ sơ bổ sung.

Một yếu tố khác trong sự phát triển của các CDO là giới thiệu năm 2001 của David X. Li về các mô hình đoạn nối Gauss, cho phép định giá nhanh chóng các CDO.[14][15]

Vào cuối năm 2005 hãng nghiên cứu Celent ước tính quy mô của thị trường CDO toàn cầu ở mức 1,5 nghìn tỷ USD và dự báo rằng thị trường sẽ tăng lên gần 2 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2006. Các CDO tổng hợp cũng mở rộng trong nhiệm kỳ của Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang, Alan Greenspan, người sau này đã giải trình về các nguy cơ trước đây không được công nhận của các công cụ này trong lời khai của ông trước ủy ban điều tra của Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 07 Tháng 4 năm 2010.[16]

Khối lượng phát hành CDO toàn cầu[17] Năm Tỷ USD 2004 157,4 2005 251,3 2006 520,6 2007 481,6 2008 61,9 2009 4,3 2010 8,0

Khái niệm

Chuyên mục: Hỏi Đáp