Một vài so sánh

So với các nước như Mỹ và Anh Quốc, hệ thống bằng cấp ở các nước Pháp, Đức và Nga (hay Liên Xô cũ) có nhiều khác biệt về thời gian đào tạo, đẳng cấp và tên gọi. Ở các nước Âu châu này, hệ thống giáo dục đại học có tính cạnh tranh cao; học sinh được nhận vào học đại học chỉ khi nào đã đỗ một kỳ thi tuyển, có khi rất khó. Ngược lại, ở các nước như Mỹ, Anh Quốc và Úc, học sinh có thể được nhận thẳng vào đại học dựa theo số điểm đạt được trong trung học và kỳ thi tú tài.

Bạn đang xem: Associate professor là gì

Tuy có khác nhau về tên gọi và chương trình huấn luyện, trên bình diện tổng quan, các nước Âu châu này cũng có ba học vị chính: cử nhân, cao học và tiến sĩ. Dựa theo thời gian đào tạo, có thể xem văn bằng Bachelor trong hệ thống Anh-Mỹ tương đương với License của Pháp, Diplom của Đức và Diploma của Nga. Tương tự, có thể xem học vị Master trong hệ thống Anh-Mỹ tương đương với Maitrise của Pháp, Magister của Đức, và một số văn bằng Candidat Nauk của Nga. Cũng dựa theo chương trình và thời gian đào tạo, có thể xem văn bằng Ph.D. của Mỹ và Anh tương đương với Doctorat du Troisième Cycle của Pháp, Doktor của Đức, và một số (không phải tất cả) văn bằng Candidat Nauk của Nga. Văn bằng D.Sc. của Anh và Úc có lẽ tương đương với Doctor d”État của Pháp, Habilitation của Đức và Doktor Nauk của Nga.

Hệ thống học hàm

Học vị là những văn bằng được cấp bởi các cơ sở giáo dục cho học sinh sau khi đã hoàn tất một chương trình học. Học hàm là những chức vụ khoa bảng hoặc do chính phủ hoặc do các trường đại học đề bạt hay trao tặng cho những người giảng dạy hay nghiên cứu khoa học. Thí dụ như Bachelor, Master, và Ph.D. (hay tương đương) là những học vị; và Professor, Lecturer, và Fellow là những học hàm. Ngày nay, hầu hết những người làm công tác giảng dạy đại học đều phải có học vị tối thiểu là Master, nhưng thường là Doctorate hay tương đương.

Trong các trường đại học Tây phương, người ta phân biệt ba cấp nhân viên giảng dạy mà tôi tạm gọi là: tập sự, trung cấp, và cao cấp. Ở bậc tập sự gồm các chức vụ như Teaching Assistant, Tutor. Proctor, v.v… Những nhân viên này có trách nhiệm làm phụ giảng, chấm bài thi, giám thị trong phòng thí nghiệm, v.v…

Ở bậc trung cấp gồm những nhân viên khoa bảng mang học hàm như Lecturer (ở Anh và Úc), Maitre Assistant (Pháp) và Assistant Professor (Mỹ)(13). Những nhân viên này là những người đang ở bước đầu trong nấc thang sự nghiệp khoa bảng, có nhiệm vụ trực tiếp giảng dạy sinh viên và làm nghiên cứu hoặc độc lập, hoặc dưới sự chỉ đạo của các giáo sư thâm niên.

Trên trung cấp một bậc là những nhân viên khoa bảng mang học hàm Reader (ở Anh và Úc), Maitre de Conférence (Pháp) và Associate Professor (Úc và Mỹ)(14). Những người này là những nhà khoa bảng đang ở trong thời kỳ “quá độ” để chuẩn bị được đề bạt lên một chức vụ khoa bảng cao nhất trong hệ thống học hàm đại học. Trong đại đa số, họ cũng là những nhà nghiên cứu độc lập và có ít nhiều uy tín trong chuyên môn.

Sau cùng là các nhân viên khoa bảng cao cấp, tức những người mang học hàm Professor (ở Mỹ, Anh, và Úc), Professeur (Pháp) hay Senior Fellow (Anh và Úc)(15). Họ là những nhà khoa bảng kinh nghiệm lâu năm và quá trình nghiên cứu có uy tín trên trường quốc tế.

Tiêu chuẩn để được đề bạt vào các chức vụ này thường dựa vào ba cống hiến chính: nghiên cứu, giảng dạy, và phục vụ cộng đồng. Về nghiên cứu, mức độ cống hiến cho kiến thức nhân loại được “đo lường” bằng số lượng và chất lượng các bằng sáng chế (patents) hay các bài báo khoa học (papers) được công bố trong các tạp chí khoa học chuyên môn(16). Tùy theo trường đại học, một Assistant Professor phải có ít nhất là 5 bài báo khoa học; một Associate Professor thường phải có tối thiểu là 30 bài báo khoa học; và một Professor phải có tối thiểu là 50 (thường là 100) bài báo khoa học.

Học hàm “kết hợp”

Ngoài các học hàm được phong hay đề bạt một cách nghiêm túc dựa trên thành tích hoạt động khoa học và giảng dạy, trong một số ngành như y khoa, kinh tế, và kỹ thuật, một số học hàm được trao tặng dựa vào sự quan hệ của người được trao và trường đại học. Trong các bệnh viện, một số bác sĩ chuyên khoa cao cấp, tuy không làm nghiên cứu khoa học và chẳng có công bố công trình khoa học nào đáng kể, có thể được bổ nhiệm chức vụ Lecturer, Assistant Professor, Associate Professor hay thậm chí Professor trong các trường Y. Tương tự, một số chuyên viên nghiên cứu khoa học trong các công ty thương mại, tuy không giảng dạy, nhưng cũng được trao tặng các chức vụ khoa bảng trên.

Xem thêm: Thiết Kế Ui/ux Cực đơn Giản Và Hiệu Quả Với Figma Là Gì

Những “nhà khoa bảng” này không được trường đại học trả lương, và không phải là nhân viên chính thức của trường. Nhưng khi họ công bố các bài báo khoa học thì trường có quyền kể những bài báo đó như tài sản tri thức của nhà trường! Tuy nhiên, bù lại, họ được phép dùng những danh xưng khoa bảng của trường trong các văn bản liên quan đến hoạt động khoa học. Những học hàm này thường có chữ “Conjoint” hay “Adjunct” phía trước danh xưng “Professor” hay “Associate Professor” để phân biệt với những học hàm “thật”. Việc dùng những danh xưng này, trên lý thuyết, thường được các trường đại học kiểm tra rất gắt gao; nhưng trong thực tế, một số người được trao những học hàm này thường lờ và bỏ đi những chữ “Conjoint” hay “Adjunct” để được người ngoài hiểu như những nhà khoa bảng thật!

Học vị và học hàm danh dự

Hầu như tất cả các trường đại học ở các nước Tây phương đều có những kế hoạch để biểu dương tên tuổi và danh tiếng của trường mình đến với thế giới bên ngoài. Để đạt được mục tiêu này, các trường đại học thường dùng chính sách cấp học vị và học hàm danh dự cho những nhân vật quan trọng trong cộng đồng. Những học vị và học hàm danh dự được trao tặng thường là những văn bằng và chức vụ cao nhất trong đại học: “Tiến sĩ” (Honorary Doctor) hay “Giáo sư” (Honorary Professor). Người được trao tặng không nhất thiết phải là cựu sinh viên hay cựu nhân viên của trường, cũng không cần phải có quá trình học vấn nào, mà có thể là một nhà hoạt động chính trị, nhà hoạt động xã hội, một nghệ sĩ, nhà báo, công chức có tiếng tăm. Ở Úc, cựu Thủ tướng Paul J. Keating, người có trình độ học vấn cấp phổ thông trung học, sau khi rời chính trường, được Trường Đại học New South Wales trao tặng học hàm “Honorary Professor”, để ghi nhận đóng góp của ông trong nỗ lực đem tên tuổi nước Úc vào thị trường Á châu.

Những học vị và học hàm danh dự, vì thế, có tính ngoại giao, “hữu nghị”, hơn là những chứng chỉ khoa bảng. Do đó, trong thực tế, phần đông những người Tây phương được trao học vị và học hàm danh dự ít khi nào dùng nó như là một thành tích hoạt động khoa bảng hay trình độ học vấn; tuy nhiên, một số đồng hương người Việt lại hay thích ký tên mình kèm theo những danh xưng danh dự nơi công cộng.

Ngoài các học hàm “hữu nghị” này, nhiều trường đại học còn phong chức “Emeritus Professor” (cựu giáo sư) cho các giáo sư đã nghỉ hưu, nhưng vẫn còn gắn bó với trường đại học. Danh hiệu này thường được trao tặng cho các giáo sư có đóng góp lớn cho khoa học, cho trường và đã làm việc tại trường trong một thời gian dài.

Vài chức vụ trong các hội đoàn chuyên môn

Một số ngành nghề chuyên môn như y khoa và kỹ thuật thường được tổ chức khá chặt chẽ, mà trong đó trình độ chuyên môn và đẳng cấp thâm niên được phân chia tương đối rõ ràng. Theo cơ cấu tổ chức này, những người hành nghề phải là hội viên của một hiệp hội chuyên ngành. Hiệp hội này có chức năng đề ra những tiêu chuẩn và qui tắc hành nghề, kiểm tra trình độ chuyên môn của hội viên, và quản lý nhân sự trong tổ chức. Theo định kỳ, thường là hàng năm, các hiệp hội chuyên môn này tổ chức một kỳ thi tuyển để kết nạp hội viên. Chẳng hạn như ở Úc và Anh, các bác sĩ muốn hành nghề chuyên khoa, ngoài việc thực tập một thời gian (khoảng 5 năm), còn phải qua một kỳ thi tuyển vào một “college” chuyên môn như “Royal College of Surgeons” (dành cho các bác sĩ giải phẫu), “Royal College of Radiologists” (dành cho các bác sĩ chuyên khoa bức xạ học), v.v… Sau khi thi đỗ, thí sinh sẽ được cấp chứng chỉ hành nghề. Những chứng chỉ này thường có chữ “Fellow” phía trước, như “Fellow of the Royal College geons” hay (FRCS). Giới kỹ sư ở Mỹ cũng có những hiệp hội tương tự như trong ngành y khoa, nhưng cách thức thu nạp hội viên và tên gọi của họ khác ngành y khoa.

Tuy nhiên, trong các ngành nghề khác, có rất nhiều hiệp hội chuyên môn hoạt động một cách bán thương mại, và hình thức tổ chức không chặt chẽ như trong ngành y khoa và kỹ thuật. Phần đông những hiệp hội này mở cửa đón nhận tất cả các hội viên, không phân biệt trình độ học vấn và khả năng chuyên môn, ngay cả sinh viên cũng có thể gia nhập, và không phải qua một kỳ thi tuyển nào. Hội viên phải đóng hội phí mỗi năm. Hội viên thường được gọi là “Member”, thay vì “Fellow” như các hiệp hội nghiêm túc. Do đó, là hội viên của những hội này không có nghĩa là một bằng chứng về khả năng chuyên môn hay thành tích hoạt động khoa học.

Ngoài các hiệp hội chuyên môn, còn có những hội đoàn bách khoa, mà trong đó thành viên là tất cả các nhà khoa học hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau. Những hiệp hội này thường có tên “Academy”, chẳng hạn như “The National Academy of Sciences of the United States of America” (tức Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ). Không giống như Liên Xô cũ (nơi mà Viện Hàn Lâm Khoa Học Moscow là một trung tâm nghiên cứu), ở các nước Tây phương như Mỹ, Anh và Úc, viện hàn lâm không phải là một viện nghiên cứu, cũng không phải là tập hợp các viện nghiên cứu, mà là một đoàn thể hay tổ chức tư nhân bất vụ lợi, có chức năng chính là: (i) cố vấn cho chính phủ các chính sách liên quan tới khoa học và kỹ thuật; và (ii) giáo dục và cổ động quần chúng về khoa học và vai trò của khoa học trong xã hội.

Đối với phần đông quần chúng, cụm từ “viện hàn lâm” đồng nghĩa với nơi tập trung của những bộ óc siêu việt, những con người thông thái nhất của một quốc gia. Nhưng trong thực tế ở các nước có nền khoa học tiến bộ cao như Mỹ thì điều này chỉ đúng một phần, vì như nói trên, Viện Hàn lâm Khoa học chỉ là một đoàn thể, là một cơ quan đại diện cho các nhà khoa học. Hội viên của hàn lâm viện thường do đồng nghiệp tiến cử và bình bầu. Do đó, có nhiều nhà khoa học có thực tài, nhưng không được tiến cử, nên không bao giờ là thành viên của hàn lâm viện! Trong số khoảng 350 nhà khoa học và xã hội Mỹ đoạt giải Nobel, chỉ có 170 người là thành viên của Viện này. Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ có khoảng 1900 thành viên (thường được dịch là “viện sĩ”); trong đó có khoảng 300 là người mang quốc tịch và ở nước ngoài . Theo tiêu chuẩn chung, họ phải là những nhà khoa học ưu tú trong lĩnh vực chuyên môn, nhưng do tính cách bình bầu, nên nó cũng lộ ra vài vấn đề liên quan đến việc thiên vị và bè phái. Đã có nhiều người cho rằng Viện này là một câu lạc bộ kín (“close club”), nơi mà chỉ có các nhà khoa học quen biết với nhau qua giao thiệp xã giao, hơn là một cơ quan đại diện chân chính cho các nhà khoa học. Điểm qua danh sách của 1900 thành viên thuộc Viện này, người ta có thể tìm thấy tên của nhiều nhà khoa học thường hay xuất hiện trên các hệ thống truyền thông đại chúng hay có nhiều hoạt động xã hội và chính trị như Albert Einstein, James Watson, v.v. Thành ra, nhiều nhà khoa học lớn, những người tự coi họ là làm khoa học loại “thứ thiệt”, những người không thích hư danh hay ồn ào trên các hệ thống truyền thông, thì không thích có mặt trong Viện này. Nhà vật lý học lừng danh Richard Feynman, cũng như nhiều nhà khoa học danh tiếng khác, không phải là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ. Chưa có một khoa học Việt Nam hay gốc Việt nào có chân trong Viện Hàn lâm Quốc gia Khoa học Hoa Kỳ.

Xem thêm: Conservative Là Gì – Nghĩa Của Conservative

Uy tín của một viện hàn lâm không chỉ tùy thuộc vào sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật của một nước, mà còn nhờ vào danh tiếng của các thành viên trong viện. Không ai sẽ ngạc nhiên khi biết rằng các viện hàn lâm khoa học của Mỹ, Anh, Pháp, Đức hay Liên Xô cũ, nơi tập trung các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới, được nhiều người nể trọng hơn là các viện hàn lâm khoa học của các nước Phi châu hay Hồi giáo. Cũng cần phải nói thêm ở đây rằng không phải chỉ khoác cái tên “hàn lâm” (academy) vào một đoàn thể hay cơ quan là tự động thành một viện hàn lâm. Trong các “viện hàn lâm khoa học” ở Mỹ, chỉ có Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ là một cơ quan uy tín nhất; các viện hàn lâm khác, mặc dù cũng dùng chữ “academy”, như “The New York Academy of Science” (NYAS hay Viện Hàn Lâm Khoa Học New York) là một đoàn thể thương mại, không có uy tín gì lớn trong cộng đồng khoa học. Bất cứ một sinh viên nào trên thế giới đều có thể trở thành “viện sĩ” nếu họ nộp tiền hội phí hàng năm cho Viện này. Do đó, thành viên của NYAS không phải là một danh dự, không phải là chứng nhận về sự thành đạt trong hoạt động khoa học. Tuy nhiên, tôi thấy đã có nhiều nhà khoa học Việt Nam đã bị lầm và bị “làm tiền” bởi Viện này (17).

Vài nhận xét chung

Người không quen với hệ thống khoa bảng và bằng cấp có thể sẽ thấy chóng mặt với những tên gọi những học vị và học hàm trên đây, và sẽ đặt câu hỏi là người được cấp những văn bằng này phải đạt những tiêu chuẩn gì. Thực ra, đứng trên bình diện quốc gia, không có tiêu chuẩn nhất quán giữa các trường đại học trong việc cấp những văn bằng này. Mỗi trường đại học có những tiêu chuẩn riêng. Có khi mỗi thí sinh cũng được xét theo từng trường hợp riêng biệt. Có sinh viên ra trường tiến sĩ chỉ trong vòng sau 3 hay thậm chí 2 năm theo học, nhưng cũng có sinh viên phải miệt mài cả tám năm để lấy mảnh bằng Tiến sĩ. Cũng có những trường hợp hiếm hoi khi sinh viên theo học chương trình Tiến sĩ, nhưng khi ra trường chỉ được thẩm định và cấp bằng Cao học. Lại có người nghiên cứu cả mười năm, nhưng chẳng viết được luận án gì!

Chuyên mục: Hỏi Đáp