Trương Tự Minh – Ở hai phần trước, độc giả đã lần lượt tìm hiểu về chủ quyền nhân dân (popular sovereignty), nguyên tắc phân quyền (separation of powers) và thể chế liên bang (federalism), vốn được xem như những hạt nhân cơ bản của Hiến pháp Hoa Kỳ. Phần thứ ba này sẽ tập trung bàn về một vấn đề mang tính cốt lõi khác của bản Hiến pháp đã có 228 năm tuổi này: vấn đề quyền và tự do cá nhân.
5 nguyên tắc nền tảng làm nên Hiến pháp Hoa Kỳ (phần 1)
5 nguyên tắc nền tảng làm nên Hiến pháp Hoa Kỳ (phần 2)
Quyền và tự do cá nhân
“We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness.
Bạn đang xem: Bill of rights là gì
”
“Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc.”
Vậy những quyền “tất yếu và bất khả xâm phạm” này của mỗi cá nhân được Hiến pháp Hoa Kỳ, đạo luật cao nhất của quốc gia, đảm bảo cho công dân mình ra sao?
Tuy nhiên, với đa số đại biểu tham dự Hội nghị Lập hiến mùa hè năm 1787, mục đích quan trọng nhất của bản hiến pháp mới là đảm bảo các quyền (rights) và tự do (liberties) cho mỗi cá nhân. Vì vậy vấn đề phạm vi quyền lực trao cho nhà nước liên bang đã trở thành một trong những chủ đề “nóng” trong chương trình làm việc tại Hội nghị Lập hiến năm đó. Về cơ bản, tất cả đại biểu đều muốn thiết lập một chính quyền quốc gia đủ quyền lực để vận hành hiệu quả, nhưng đồng thời nó không được xâm phạm hay tước mất các quyền cá nhân và thẩm quyền của tiểu bang.
Để đáp ứng cùng lúc hai yêu cầu trên, những nhà kiến tạo Hiến pháp Hoa Kỳ (Framers of the Constitution) chọn giải pháp ở mô hình nhà nước có quyền hạn chế (limited government). Theo đó, chính thể liên bang chỉ sở hữu quyền lực được người dân trao cho – dựa trên nguyên tắc chủ quyền nhân dân (popular sovereignty) – và chỉ trong phạm vi Hiến pháp quy định. Bản thân quyền lực của nhà nước liên bang cũng được kiểm soát và hạn chế bởi chính các bộ phận chức năng bên trong nó (lập pháp, hành pháp, tư pháp) dựa trên nguyên tắc phân quyền (separation of powers); đồng thời quan hệ thẩm quyền giữa nhà nước trung ương và chính quyền bang được xác định trong cấu trúc thể chế liên bang (federalism).
Lúc này chỉ còn mối quan hệ giữa quyền lực nhà nước và quyền tự do cá nhân là vẫn còn để ngỏ. Chính từ đây đã phát sinh mâu thuẫn giữa các đại biểu ở Philadelphia năm 1787, để rồi hình thành hai luồng quan điểm trái ngược nhau mãi cho đến khi Hiến pháp được chính thức thông qua vào tháng 3/1789.
Xem thêm: Saturation Là Gì – định Nghĩa, Ví Dụ, Giải Thích
Các đại biểu như George Mason, Elbridge Gerry và Edmund Randolph – những đại diện nổi bật của bên chống lại thể chế liên bang (anti-federalists) – cho rằng mặc dù bản hiến pháp đề xuất ở Hội nghị đã làm tốt việc ngăn chặn nguy cơ lạm quyền của nhà nước trung ương bằng cơ chế kiểm soát và đối trọng, văn bản này lại chỉ quy định những điều chính quyền được làm mà không nói đến việc nó không được làm gì. Quan trọng hơn, nhằm cân bằng với quyền lực nhà nước, theo các đại biểu trên hiến pháp cần phải có nội dung ghi nhận, đảm bảo các quyền và tự do của mỗi cá nhân tương tự những bản tuyên ngôn về quyền (bill of rights) một số tiểu bang đã có trước đó.
Ở phía ngược lại, phần lớn các đại biểu khác nhận thấy không cần thiết phải đưa vào hiến pháp các quyền cá nhân cụ thể. Thậm chí Alexander Hamilton, người đã cùng “Cha đẻ của Hiến pháp Mỹ” James Madison viết nên Luận cương Thể chế liên bang (The Federalist Papers), còn khẳng định: “Bản Hiến pháp tự thân nó đã là một Tuyên ngôn về Quyền/The Constitution is itself a Bill of Rights.” Dựa trên cách hiểu này, chính quyền chỉ có thể thực thi quyền hạn trong phạm vi hiến định còn các cá nhân được tự do làm bất cứ điều gì không thuộc thẩm quyền nhà nước. Thêm vào đó, một số đại biểu thuộc phía ủng hộ thể chế liên bang (federalists) lập luận rằng việc liệt kê các quyền cá nhân trong hiến pháp tiềm ẩn một nguy cơ: nhà nước có thể xâm phạm tự do cá nhân trong trường hợp một quyền căn bản nào đó bị hiến pháp bỏ sót.
Từ những lý do vừa nêu – hoặc có ý kiến cho rằng các đại biểu đã quá mệt mỏi sau 4 tháng trời tranh cãi – tháng 9/1787, bản dự thảo hiến pháp không có phần ghi nhận các quyền cá nhân được thông qua và gửi đến các bang chờ phê chuẩn. Tuy nhiên, sự thiếu vắng nội dung trên cuối cùng lại hóa thành trở ngại cho việc thông qua hiến pháp. Theo quy định, phải có ít nhất 9/13 bang phê chuẩn dự thảo thì hiến pháp mới được thông qua. Sau khi James Madison và các cộng sự của ông đã thuyết phục được 5 bang phê chuẩn, một số bang khác như Massachusetts, Maryland và Virginia vẫn tiếp tục phản đối bản dự thảo vì vấn đề quyền cá nhân.
Xem thêm: Ur Là Gì – Nghĩa Của Từ Ur
“A bill of rights is what the people are entitled to against every government on earth, general or particular, and what no just government should refuse, or rest on inference.”
“Một bản tuyên ngôn dân quyền là điều mọi người dân phải có trong quan hệ đối lập với mọi loại nhà nước nói chung hay đặc thù, và đó cũng là điều mà không một nhà nước chính danh nào được từ chối hay chỉ ngầm hiểu.”
Chuyên mục: Hỏi Đáp