#7 Cách Nuôi Gà Chọi Đá Bo Lớn Hết Hồn ✅ Thân Hình Chuẩn Như Lý Đức Update 10/2024

Bài viết này được lấy từ sách kỹ thuật nuôi gà đá. Tác giả là KS. NGUYỄN HOÀNG và do NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN sản xuất.

Đang xem: Cách nuôi gà chọi đá

Tổng hợp tất cả các kỹ thuật nuôi gà đá, gà nòi tất tần tật từ a- z. Hoàng Gà Nòi tin rằng quý độc giả sẽ có cái nhìn bao quát hơn và chi tiết hơn… Thú chơi gà nòi và truyền thống đá gà tại Việt Nam đã có từ lâu đời, có thể hơn 700 năm trước vào thế kỷ thứ XII. Các triều đại vua chúa Việt Nam ngày xưa thường dùng các con vật để thi đấu hoặc biểu diễn trong những dịp lễ hội đặc biệt.

*

Nuôi gà đá cũng cần phải có kiến thức, kinh nghiệm và cả kỹ thuật

Mục lục

Đôi nét về nghệ thuật gà đáCHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ THÚ CHƠI GÀ CHỌILịch sử thú chơi gà đáCHƯƠNG II: CÁC GIỐNG GÀ CHỌITìm hiểu về các giống gà chọiCách tuyển giống gà chọiTìm hiểu một số kỹ thuật chọn lọc và nhân giống gàCác phương pháp lai tạo giốngPhương pháp tuyển giông gà chọiChọn giống bố mẹ, chọn gà conCHƯƠNG III: KỸ THUẬT NUÔI VÀ HUẤN LUYỆN GÀ CHỌINghề nuôi gà chọiCác thuật ngữ thường dùng trong nghề nuôi gà chọi Kỹ thuật đúc gà chọi

Đôi nét về nghệ thuật gà đá

Phân loại gà

*

phân loại gà đá

Có ba loại chính được dùng trong thể loại thi đấu là: Hổ quyền, chọi trâu, và đá gà. Trong khi hổ quyền là một nghệ thuật biểu diễn võ thuật được tổ chức trong giới hạn của cung đình cho các bậc vua chúa thưởng ngoạn, thì chọi trâu và đá gà là hai thú vui dân gian.

Tuy nhiên phải nói đá gà là một trong những loại thi đấu được nhiều người ưa thích và tham dự. Trong nghệ thuật gà nòi, những người trẻ tuổi chập chững bước vào thú chơi đá gà thường “tầm thầy học đạo” trong quan hệ sư phụ và đệ tử. Đối với một sư kê thì nỗi sung sướng và tự hào lớn nhất của họ là khi dòng gà của mình ra trường đá thắng một con gà lừng danh khác đã có tên tuổi trên chôn giang hồ. Những trận gà “để đời” như thế được kể lại và truyền miệng trong giới mộ điệu, tên tuổi của họ được nhiều người nể nang và biết đến. Có thể nói người chủ kê chỉ được các tay chơi gà biết đến nếu con gà lập được công trạng.

Đặc điểm

*

đặc điểm về gà chọi

Gà đá quan trọng nhất là tông mái. Gà mái nòi, chủ không bao giờ bán mà chỉ tặng, biếu cho người rất thân để giữ giống, giữ tông. Những con gà tài chịu đòn giỏi, sức bền, có nhiều thế độc là do gà mẹ di truyền. Gà nòi cha củng quan trọng, gà cha củng phải tài, ăn nhiều độ, chưa thua thì mới sinh ra được gà tài, gà hay.

Thường một đám gà con khi tuyển chọn củng chỉ được một vài con gà tài. Chọn được giống gà hay đã khó, quá trình chăm sóc huấn luyện nó trở thành một con gà đá hay còn khó hơn. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi đã cho ra đời ấn phẩm Kỹ thuật nuôi gà đá như một món quà dành tặng cho tất cả những người đam mê môn đá gà.

CHƯƠNG I: TÌM HIỂU CHUNG VỀ THÚ CHƠI GÀ CHỌI

Lịch sử thú chơi gà đá

Đôi nét về gà – Dấu vết văn minh Đông Nam Á

*

đá gà ngày xưa

Nghĩ đến con gà nhiều người thường nghĩ đến một làng quê êm ả bên con sông nhỏ và một buổi trưa hè nóng bức oi ả. Cái nắng chói chang làm khô đống lúa ngoài sân mới gặt về; một vài ngọn gió hiu hiu thổi qua; một đàn gà vô tự nhặt lúa; tiếng gà gáy ó ò 0… một hình ảnh đầm ấm, no đủ của miền quê Việt Nam. Trong bài Nắng mới, Lưu Trọng Lư đã miêu tả thật sinh động cái hình ảnh lung linh đó: “Mỗi lần nắng mới hắt bên song, Xao xác gà trưa gáy não nùng, Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng, Chập chờn sống lại những ngày không”. Nắng; làn gió; sân nhà; tiếng gà gáy… những thành tô” đó có thể khuấy động hồn quê của mọi người Việt. Trong tâm khảm của bất cứ người Việt nào, kể cả những người sinh trưởng ở thành thị, cũng ẩn chứa một chút cái “nhà quê”. Sống trong thời đại chạy đua với thời gian, chúng ta ngày càng đi xa cái “nhà quê” đó; nhưng một khi có dịp nghe tiếng gà gáy trong cái nắng chang chang, cái “nhà quê” mộc mạc ấy bỗng dưng sống dậy nguyên vẹn trong tâm hồn mọi người.

Chế Lan Viên từng viết về cái tâm trạng nhố quê da diết khi nghe tiếng gà gáy: “Nhớ biển miền Trung tiếng sóng đùa Nhớ nhà cha mẹ, cảnh trường xưa Nhớ chao ôi nhớ! Tròi xanh thế! Gà lại dồn thêm tiếng gáy trưa!” Tiếng gà gáy trong thơ Việt Nam là tiếng gà rất Việt Nam. Nó khác biệt với tiếng cuốc, tiếng oanh hay tiếng nhạn trong thơ Đường. Tiếng gà gáy trong buổi trưa hè có một tác động lạ lùng, như khơi dậy những tiềm thức và tầng u ẩn của tâm hồn con người trong cộng đồng làng xóm Việt Nam. Nó khơi dậy cái gốc gác văn hóa nông nghiệp của người Việt. Có lẽ trong 12 con vật dùng làm biểu tượng cho chu kỳ 12 năm trong lịch Việt Nam, con gà đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển văn hóa nông nghiệp.

Nói đến gà là nói đến con người, hai sinh vật đã chung sống qua hàng chục ngàn năm, và trong thời gian dài đằng đẵng đó, con người đã biến đổi loài gà nhiều đến độ có thể nói rằng chúng là sản phẩm sáng tạo của con người, chứ không còn là sáng tạo nguyên thủy (là loài chim) của tự nhiên nữa. MỐI liên hệ của loài gà và con người có thể nói lên sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây một cách rõ nét nhất. Người phương Tây xem con gà như là một con vật bậc thấp, một con vật họ có thể kỹ nghệ hóa để lấy trứng, lấy chất đạm nuôi con người. Nhưng đối với người nông dân Việt Nam nói riêng và khu vực Đông Nam Á nói chung, con gà là bạn và là một biểu tượng văn hóa.

*

em bé và gà

Hình ảnh con gà không chỉ xuất hiện trong thơ ca mà còn được thể hiện trên ngọn bút của những họa sĩ dân gian. Trong bộ tranh truyền thống làng Đông Hồ, tranh gà và lợn vẫn chiếm đa sô”. ‘Tranh dần gian – Đông Hồ: “Em bé và gà” và “Gà trống” Bộ tranh gà lợn được treo trang trọng trong nhà nhân dịp Tết thể hiện niềm mong ước được sung túc, viên mãn, dồi dào sức khỏe (tranh Gà trống) trong năm sắp đến. Bình luận về màu sắc trong tranh gà tranh lợn, một học giả nhận xét: “Tranh gà tranh lợn đỏ như xôi gấc, vàng như lúa chín, xanh như lá mạ”, hay “…vàng như nghệ kho cá, xanh như cốm non, đỏ như ngô già, nâu như đất cày”. Đó đều là những màu sắc quen thuộc, in sâu vào tâm trí mỗi người nông dân của nhiều thế hệ, trở thành những màu sắc dân tộc: “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Gà là một dấu tích của văn minh và văn hóa nông nghiệp. Trên trống đồng, gà và chim (cùng giống) là những loài vật được thể hiện tương đối nhiều. Chim đứng trên mái nhà hình thuyền giống chim công, gà và đa số những loài chim nước như: cò, bồ nông, xít…

tranh gà

Người Đông Nam Á cổ xem loài gà như một biểu tượng huyền bí của thần thánh, ở Sumatra (Nam Dương) người dân xây dựng đền thờ gà và tổ chức ngày lễ hằng năm để vinh danh thần gà. Trong huyền sử Việt Nam có truyền thuyết cho rằng, thòi vua An Dương Vương Thục Phán nước Âu Lạc, nhà vua cố công xây thành ở đất Việt Thường, nhưng đắp đến đâu thì đất lở đến đấy. Thục Phán cầu trời thì được một còn rùa (thần Kim quy) đến giúp. Rùa thần báo cho nhà vua biết ở núi Thất Diệu có một con gà trắng sống đến ngàn năm rồi hóa thành yêu tinh ẩn trong núi, nếu diệt được nó thì việc xây thành sẽ thành công.

Bên cạnh núi có một quán trọ, mà chủ quán là Ngộ Không có một cô con gái và một con gà trống trắng vốn là dư khí của quỷ tinh biến thành để hãm hại dân làng. Đến khi nhà vua giả dạng thường dân ghé lại quán nghỉ qua đêm, và cùng với sự giúp đỡ của rùa thần, nhà vua xua đuổi ma quỷ đến tận chân núi Thất Diệu. Quay về quán, nhà vua bảo Ngộ Không nên giết con gà trắng, và khi con gà chết, lập tức người con gái cũng chết. Sau đó chỉ nửa tháng thành quách xây xong. Không chỉ Đông Nam Á, các nền văn minh cổ khác cũng xem con gà là một con vật đặc biệt, có ý nghĩa tôn giáo. Thời đại nữ hoàng Victoria, Người Anh xem con gà trống là biểu tượng của nam tính và sức sống. Những nhà văn danh tiếng như Aldrovandi còn cho rằng: “Gà trống là tấm gương tốt nhất và trung thực nhất về người cha trong một gia đình”, bỏi vì không chỉ là một người bảo vệ an toàn cho gia đình, nó còn tất tả lo lắng đến sự sinh tồn cho tất cả thành viên trong gia đình. Tính can đảm của gà được biểu hiện qua những trận đá gà. Đá gà (hay nói theo phương ngữ miền Bắc là chọi gà) là một trò chơi dân gian đã được lưu truyền tại vùng Đông Nam Á qua nhiều thế kỷ. ở nước ta sử sách cũng có đề cập đến đá gà từ thế kỷ XII. Hưng Đạo Vương trong Hịch tướng sĩ từng than trách những người ham mê đá gà mà quên việc lốn của nước nhà.

*

lễ hội chọi gà

Mỗi khi Tết về, đá gà là một trò chơi không thể thiếu được ở nông thôn. Thời kỳ trước năm 1975, ở miền Nam còn có cả một kỹ nghệ nuôi gà nòi và có nhiều trường đá gà. Trò chơi đá gà không chỉ là một thú vui dân giã, mà còn thu hút các giai cấp ở tầng thượng lưu giàu có, với những cuộc tranh tài được tổ chức rất quy mô và có nội quy nghiêm chỉnh, với sự tham gia của các quan chức cao cấp. (Trước năm 1975, ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu phó tổng thống miền Nam, là một trong những người nổi tiếng ham mê đá gà). Trong các giông gà đá, có lẽ gà tre (chỉ thấy ở miền Tây Nam bộ) là nổi tiếng nhất. Đây là một giống gà nhỏ, lông màu sặc sỡ, đuôi dài, chân cao, đùi săn chắc, rất lý tưởng cho đấu trường đá gà. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, với sự ra đời của các học thuyết đạo đức mới và biến chứng cò bạc trong trò chơi, đá gà không được xem là một loại hình thể thao, một trò chơi giải trí mà là một hành động tàn nhẫn với thú vật.

Nhiều người phương Tây nhìn trò đá gà ở các nước Đông Nam Á như là một tàn dư, một dấu vết về sự kém văn minh của người dân trong các nước đang phát triển. Nhưng có lẽ họ quên rằng đá gà có một lịch sử rất lâu dài, đã từng thịnh hành và thậm chí vẫn còn đang tồn tại ở một số nưóc phương Tây. Theo cổ sử, đá gà là một trong những loại hình thể thao phổ biến nhất trong xã hội người Ai Cập, Ba Tư (tức Iran ngày nay), Do Thái, và Canaan (Trung Đông). Thời đó, người ta nuôi và gây giống gà chọi để đấu và đánh cuộc trong các phiên chợ tương tự như đá gà trong thế kỷ XX ở nước ta.

đá gà thời xưa

Thời kỳ thế kỷ thứ I (sau Công nguyên), Julius Caesar là người truyền bá trò chơi đá gà đến người dân La Mã và sau này đến người Anh. Đến thòi vua Henry thứ VIII (thế kỷ XVI), đá gà ở Anh thịnh hành đến mức trở thành một loại hình thể thao quốc gia. Thòi đó, những cuộc tranh tài thường diễn ra tại cung điện của nhà vua và tại các khuôn viên nhà thờ vì các giáo sĩ cũng ham mê đá gà. Đến thời Hoàng hậu Victoria thì môn thể thao này bị suy tàn vì sắc lệnh của triều đình cấm đá gà. Công cuộc truy tìm nguồn gốc của gà là một đề tài nghiên cứu quy mô của nhiều nhóm khoa học gia trên thế giới, và qua các nghiên cứu này, nhiều phát hiện thú vị đã làm thay đổi cái nhìn về nền văn minh nông nghiệp Đông Nam Á.

Hiện nay trên thế giới, người ta thống kê có tất cả 175 giông gà khác nhau, và tất cả đều xuất thân từ loài chim rừng màu đỏ có tên tiếng Anh là Red ơungle Fowl, tên khoa học là Gallus gallus. Theo các tài liệu khảo cổ học trong và dựa vào các di vật khảo cổ, giới khoa học cho rằng loài chim này được con người thuần dưỡng vào khoảng 4000 năm trước đây tại vùng thung lũng Indus (tức Pakistan ngày nay). Tuy nhiên, các nhà khảo cổ học Trung Quốc dựa vào các di chỉ tìm thấy trong các vùng thuộc sông Hoàng Hà (Yellow River) cho rằng, Trung Quốc mới là nơi đầu tiên thuần dưỡng các loài gia cầm như gà và ước tính thời điểm thuần hóa gà xảy ra vào khoảng 6.000 – 7.500 năm trước đây. Nhưng thời điểm này cũng bị nghi ngờ, bởi vì khí hậu và môi trường miền bắc Trung Quốc không thể là nơi lý tưởng cho loài gà rừng Red Jungle Fowl phát triển.

*

đá gà thời xưa

Trong hai công trình nghiên cứu quan trọng công bô” trên Tập san Viện hàn lâm khoa học quốc gia Mỹ, một nhóm khoa học gia Nhật so sánh cấu trúc di truyền của 21 giống gà thuộc gia đình Gallus gallus từ Thái Lan, Nam Dương, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật, Sri Lanka… và phát hiện ra rằng, giống gà ỏ Thái Lan có hệ sô” phong phú di truyền cao nhất, tức là giông gà ở đây có độ tuổi di truyền cao nhất. So sánh DNA gà Đông Nam Á và DNA các giống gà khác trên thê” giới, các nhà nghiên cứu Nhật đi đến kết luận rằng, tất cả các giông gà nuôi trên thê” giới ngày nay xuất phát từ một giông gà từng sông (hay thuần hóa) tại một vùng đất mà ngày nay thuộc Thái Lan và Việt Nam. Họ còn ước tính rằng thời điểm thuần hóa gà rừng tại Đông Nam Á bắt đầu vào khoảng 8.000 năm về trước.

Phát hiện này của các nhà nghiên cứu Nhật, dựa vào phương pháp nghiên cứu sinh học phân tử hiện đại nhất, cũng phù hợp với các di chỉ khảo cổ học tìm thấy ỏ nước ta. Tài liệu khảo cổ học Việt Nam cho biết có khá nhiều xương cốt của các loài gia cầm như: gà, vịt… thuộc thời kỳ hậu Đồ đá mới được tìm thấy tại Phùng Nguyên, Gò Mun, Đồng Đậu và Hoa Lộc. Tại Đồng Đậu, các nhà khảo cổ học Việt Nam còn phát hiện 2 tượng gà nặn bằng đất nung. Như vậy, có thể nói gà đã được con người thuần dưỡng ít nhất là 8.000 năm trước đây tại những vùng đất thuộc Việt Nam ngày nay.

Trong cuốn Origin of species, Darwin cũng từng khẳng định rằng tất cả các giống gà nuôi trên thế giối đều có nguồn gốc từ gà rừng Đông Nam Á. Trong một bài viết cho Tập san National Geographic, w. G. Solheim II nhận xét rằng, Đông Nam Á là nơi phát triển nền chăn nuôi đầu tiên trên trái đất. Gần đây, có hai nghiên cứu từ Nhật cho thấy giống gà Shamo, một loại gà nòi được nuôi chủ yếu cho trò chơi đá gà, có nguồn gốc từ Đông Dương và miền Nam Trung Quốc ngày nay.

Thú chơi gà đáthú chơi đá gà

Hai con gà chọi vào sới phải cùng cân, cao bằng nhau và cựa cũng phải dài bằng nhau. Nếu chênh lệch, con gà nào hơn phải chấp. Nếu hơn 0,lkg phải chấp 10 phút bịt mỏ, hơn 1 thành chiều cao (lcm, tính bằng cách so vai) chấp 10 phút bịt mỏ, cựa chênh lệnh (về độ dài, to) hai chủ gà sẽ thỏa thuận quấn băng, vải thêm. Mục đích của việc ghép gà và tính chấp là bảo đảm công bằng, bỏi đốì với gà đem ra chọi thì “nhất khỏe, nhì tài”. Con nào khỏe hơn, có ưu thế về chiều cao, cân nặng, cựa sẽ có nhiều khả năng thắng hơn. Nhưng có nhiều trường hợp những con gà thấp hơn, nhẹ cân hơn nhưng nhò có lôi. đánh khôn ngoan nên giành chiến thắng.

Một trận chọi gà thường kéo dài trong 9 hồ, mỗi hồ 15 phút, nghỉ giữa hồ 5 phút. Mỗi trận đấu, chủ gà duy nhất được vay thêm 5 phút cho gà nghỉ ngơi và chữa trị khi gà bị đau. Gà bị tính thua khi bỏ chạy (miệng kêu, chân chạy) hoặc chủ gà bế gà lên xin thua. Nhiều trường hợp, do trúng đòn quá nặng, gà chết ngay trong sới. Luật Trường gà – Miền Bắc: Luật trường gà khác nhau tùy địa phương. 0 sối Yên Sỏ, mỗi hiệp đấu được ấn định là 15 phút. Nghỉ và làm nưốc là 5 phút. Không có giói hạn mỗi độ gà là bao nhiêu hiệp. Sô” hiệp của độ gà có thể được thỏa thuận giữa hai chủ kê. Các chi tiết như: khóp mỏ, chắp lông, may mắt có thể khác biệt giữa các trường gà.

– Miền Trung: Ớ tại tỉnh Bình Định, mỗi một hiệp (ôm) được ấn định là 20 phút. Gà ra hiệp làm nước cho nghỉ 5 phút. Gà nòi ra trường cáp độ được phân loại theo sức nặng như sau: + Hạng nặng: Trên 3,5kg + Hạng trung: Từ 3 đến 3,5kg + Hạng nhẹ: Dưới 3kg. Các trận đá gà thường được tổ chức vào dịp trước Tết và tiếp tục cho đến tháng Tư.

– Miền Nam: Tại Sài Gòn, mỗi hiệp là 15 phút, làm nước nghỉ cũng 5 phút như các nơi khác. Các tay chơi gà thường dùng chữ “chặng” (đọc chệch thành “chạng”) để phân loại gà thành 3 cõ như sau: + Chặng nhất: Trên 4kg + Chặng nhì: Từ 3 đến 4kg + Chặng ba: Dưới 3kg.

*

các loại gà chọi

Trong khi phép phân chặng và cáp độ của gà đòn rất cầu kỳ và tôn thì giờ thì phép cáp độ của gà cựa đơn giản và nhanh chóng hơn nhiều. Các tay chơi gà cựa thường dùng cân để cân trọng lượng của cả 2 con, vừa nhanh vừa giản tiện. Thường thì gà được cân tại nhà và cả hai bên đều đồng ý cáp gà qua điện thoại hay bằng miệng tại quán cà phê hay các quán ăn rất nhanh chóng trước khi mang gà đến điểm hẹn để xem lại lần cuối trước khi vào độ. Nếu cả hai bên đồng ý họ sẽ mang gà đến một điểm hẹn khác được dùng làm trường gà.

Trận chiến kết thúc nhanh chóng cho các trận gà dùng cựa sắt để tránh sự theo dõi và bắt bớ của lực lượng công an, cảnh sát. Trước đây những trận gà cựa đá bằng cựa thật thường được cáp tại trường gần giống như lối cáp của gà đòn, nhưng sau này không thông dụng do lệnh cấm của nhà nước nên hiện nay các trận gà cựa được tổ chức tại các trường di động. Đấu trường là nơi gà tranh tài trong những trận đá được gọi là “sối gà” (tiếng miền Bắc) hay “trường gà” (tiếng miền Nam). Các đấu trường ở miền Bắc và miền Trung đặc biệt dành riêng cho gà đòn. Thú vui đá gà ở Việt Nam mặc dù vi phạm luật pháp và không được chấp nhận nhưng mọi ngưòi nòi chung đều dễ dãi cho thể loại đá đòn.

Trưốc năm 1975, hầu hết các trường gà tại miền Nam đều dành riêng cho gà đòn hay gà cựa. Có rất nhiều trường gà nổi tiếng quanh vùng Sài Gòn, Biên Hòa, Hóc Môn. Các đại gia giàu có ở miền Nam thường thích đá gà cựa hơn vì có kết quả ăn thua nhanh chóng. Vào giai đoạn này gà cựa thường ra trận vối cặp cựa thật của nó. Rất nhiều câu chuyện trong các sách truyện kể lại những trận gà cựa nổi tiếng trong những vùng như: Cao Lãnh, Bến Tre và Bạc Liêu.

*

các loại gà chọi

Ngày nay, giới trẻ chơi đá gà cựa tại miền Nam thường gắn dao, cắm nhọn để tranh tài cao thấp trong khi các tay chơi gà thuộc thế hệ lớn tuổi thường trung thành vối môn đá đòn truyền thống. Kỹ xảo trong xới gà Trong trường gà thường có 4 thành phần chính: chủ trường gà, người giữ lại 10% trên tổng tiền độ của chủ gà đã cáp độ trước; trọng tài, người phân xử thắng thua, thả gà và cho tái đấu; biện gà, là những tay ghi nhó ai đặt cược bao nhiêu cho gà.

Cuối cùng, là những tay hàng xáo ăn theo. Hàng xáo là người không có gà, ít vốn, chủ yếu bắt với nhau thông qua biện gà. Cứ 1 triệu đồng thì biện lấy 50 nghìn, đây là tiền luật từ xưa đến nay trong giối chơi gà độ, không ai thắc mắc hay ngạc nhiên. Biện là những tay cực kỳ sành gà, con gà nào yếu thế hoặc đang thắng thế để giảm giá tiền, biện chỉ cần nhìn ngang là đoán đúng. Về khả năng nhìn gà, biện cũng không thua thầy gà. Chiêu làm độ gà thường được sử dụng nhất hiện nay là bôi thuốc lên mồng, đầu gà hoặc tích gà.

Gà trước khi cho vào sối đá, để kích thích gà, chủ gà thường dứ gà mình cho gà đối thủ mổ vào đầu hoặc tích, mồng vài lần để gà sung hơn. Quy trình kích thích gà này diễn ra hai chiều đối với hai chủ gà. Lợi dụng kiểu “chào hàng” này, trưóc các trận độ lốn, chủ gà thường bôi thuốc mê lên đầu hoặc mồng, tích của gà mình. Khi chủ gà đối thủ cho gà mổ, nếu như không cảnh giác thì ngay lập tức trúng đòn.

Thuốc mê ngấm rất nhanh, gà ra sối vừa nhảy vài chân và lập tức sùi bọt mép, đứng không vững và biến thành tấm bia để con gà kia muốn đá hay đâm cựa ra sao thì cứ thoải mái.(Bí quyết yẹm móng gà được những người chơi gà độ truyền 6ằng hỉnh vẽ. Nếu nhự gà đốì thủ thuộc loại gà dữ, thích đá lông, chủ gà sẽ bôi thuốc vào lông gà trước trận đấu. Dĩ nhiên, tâm tính mỗi con gà độ nếu như đá tại trường hẳn 1 hoi đều được chủ gà cho đàn em đi tìm hiểu rất kỹ trưốc lúc đặt tiền cáp độ. Cách dùng kỹ xảo này cũng có thể bị phát hiện nếu như trường gà có trọng tài giỏi hay có thầy gà giám sát. Để tránh bị phát hiện, chủ gà nghĩ ra chiêu gọi là “kèo phản”.

Với loại “kèo phản” này, chủ gà sẽ dùng cựa sắt, đâm vào phần gân trên chân gà của mình, sau đó âm thầm cho đàn em đặt cược vối dân hàng xáo vối kèo là gà của đối thủ. Kiểu chơi này là chấp nhận “mất con săn sắt để bắt con cá rô”. Gà bị đâm chân, nhìn rất tươi tỉnh, đi đứng cũng bình thường nhưng khi vào xối, gà không thể nhảy lên để đâm đối thủ. Cái chết đối với các con gà bị chủ dùng “kèo phản” chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Một trong những chiêu của “kèo phản” nữa là nhét trứng cút sống có chích thuốc vào miệng gà. Cần phải nhét cho khéo để trứng không bị vỡ, sau màn kích thích gà, chủ gà sẽ “vô nước” cho gà tươi tỉnh để vào xới.

*

các loại gà chọi

Trong quá trình vô nước này, chủ gà chỉ cần bóp diều gà cho trứng cút vỡ ra, thuốc ngay lập tức thấm vào cơ thể gà. Gà vào xối, nhảy vài chân là lập tức trở thành ngây ngây dại dại. Ngoài “kèo phản”, chiêu “búng hột lúa” cũng rất hay được sử dụng. Trong các trường gà lốn, hàng ehục con gà được trọng tài cho nhôi trong lồng, quây kín ngoài sân để dân hàng xáo nhìn tưóng gà để thuận tiện cho việc đánh cuộc. Những tay chơi kiểu hàng xáo mà đặt lớn, thường cho em út đi quan sát gà đối thủ, thấy không có ai để ý thì nhanh tay búng hạt lúa có ngâm thuốc vào lồng gà. Gà chuẩn bị vào độ thường không được cho ăn để bay nhảy cho gọn nhẹ, nay thấy lúa, lập tức chạy lại mổ. Vậy là dính thuốc. Tất nhiên, mọi tuyệt kỹ làm độ gà đều phải diễn ra rất nhanh và bí mật. Còn giả như bị phát hiện thì hậu quả không ai có thể lường trước được.

Khoảng năm 1994, những con gà độ thuộc dòng gà nòi, gà tre hay gà lai đã được thay thế bằng loại gà mới: gà Mỹ hay còn gọi là Mexico. Đây là loại gà được giói Việt kiều nhập về cho dân chơi gà độ chuyên nghiệp Việt Nam thưỏng ngoạn. Gà Mỹ rất đẹp, sức khỏe tốt, ra chân nhanh, lì lợm, nhìn mặt rất có thần. Điều đặc biệt nhất là gan và tim gà Mỹ nhỏ hơn gan và tim gà chọi truyền thống ỏ nước ta rất nhiều. Mà đã chơi gà độ, chỉ cần gà có tim và gan nhỏ đã là một lợi thế rất lớn. Vì khi gà bị đâm cựa vào phần nách non, nếu không phạm tim và gan thì gà vẫn có thể tiếp tục đá. Tuy nhiên, yếu điểm của gà Mỹ là dàn nạp không tốt, tức là khi băng cựa sắt, gà Mỹ không quen đá bằng gà Việt Nam.

*

gà ô

Gà ô có 2 chân vói hai màu khác nhau – một loại gà ô vô cùng hiếm, Lý giải điều này, các tay chơi gà độ cho rằng do tại Mỹ, người ta tổ chức thi đấu gà bằng cựa dao hay 34 còn gọi là cựa chém nên thế đá khác vối Việt Nam. Việt Nam chủ yếu chơi cựa nhọn hay cựa đâm. Chính vì vậy, một con gà hay phải là gà Mỹ lai vối gà mái tài của Việt Nam, cho ra đời loại gà lai đời F2, còn gọi là “lai 25”. Với loại gà “lai 25” này, chỉ cần nhìn khuôn mặt và đôi mắt dân chơi gà độ đã say mê.

Theo nguyên tắc chơi gà độ thì “mặt to gà lì, mặt nhỏ gà lanh”, da mặt càng mịn càng tốt. Con gà “lai 25” đáp ứng tiêu chí mặt nhỏ dài như 2 ngón tay, mắt dài, phần hô” mắt lòng trắng nhiều… nhìn như “thần tưống”. Các con gà “yếu gan” khác nhìn dáng gà “lai 25” thì không cần nghe tiếng gáy cũng đã chạy. Ngoài gà Mỹ, dân chơi gà độ còn được bổ sung bằng loại gà của Philippines. Gà Phi lì, mổ đâu đá đó, gọi nhại đi đá. Vối gà Phi, dân chơi gà độ thích nhất loại “gà lai 50”. Từ ngày gà lai xuất hiện, giới chơi gà độ như tìm được một liều doping mới, các tuyệt chiêu làm độ ngày cũng một phong phú hơn.

CHƯƠNG II: CÁC GIỐNG GÀ CHỌI

Tìm hiểu về các giống gà chọi

Khái quát chung về giống gà chọi

*

kỹ thuật nuôi gà đá

Ở Đông Nam Á có rất nhiều giống gà chọi nổi tiếng, trong đó Việt Nam cũng là một nước có những giông gà chọi quý bởi những thế đánh khôn khéo, sự nhỏ bé về hình dáng nhưng có sức bền và độ dẻo dai… Không ai biết gà nòi Việt Nam có nguồn gốc từ đâu. Xuất xứ khởi thủy của nó không thể truy cứu được vì thiếu tài liệu. Nghệ thuật đá gà ở Việt Nam là một truyền thông văn hoá lâu đòi đã được ghi chép cách đây ít nhất là 700 năm. Có thể Việt Nam là quốc gia duy nhất có giông gà nòi đòn trụi cổ, vì giống gà này không có xuất xứ từ những quốc gia khác. Trong những thập niên gần đây, gà nòi đã được xuất cảng qua các quốc gia láng giềng như: Thái Lan, Indonesia và Malaysia.

Những ngưòi Việt hiện sinh sống ở Hoa Kỳ cũng đã đem được trứng gà nòi qua đây và ấp nở thành công. Ngoài ra, chỉ có một nơi duy nhất có giống gà nhìn không khác gì gà nòi, đó là đảo Reunion. Đã có khá nhiều tranh cãi về nguồn gốc gà nòi. Theo tài liệu của nhóm chuyên gia Nhật Bản thì gà đã được thuần hoá cách đây 8.000 năm tại Đông Nam Á trong một khu vực phạm vi bao gồm Thái Lan và Việt Nam, nơi mà loại gà rừng đỏ hiện đang còn sinh sống. Theo Từ điển Đại Nam Quốc Ầm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của thì gà nòi có nghĩa là gà người ta nuôi để cá độ và chính là giông gà tốt. Danh từ gà nòi được dùng để gọi chung cho cả gà nòi đòn lẫn gà nòi cựa (thường gọi tắt là gà đòn và gà cựa). Gà đòn là loại gà cổ trụi, chân cao, cốt lốn dùng đê đá chân trơn hoặc bịt cựa.

*

Kỹ thuật nuôi gà đá

Gà đòn được chia ra hai loại rõ rệt. Đó là loại gà Mã lại (còn gọi Mã mái) và gà Mã chỉ. Gà Mã lại là loại gà có lông bờm, lông mã ngắn và tròn theo hình bầu dục. Gà có lông đuôi chính xoè ra như đuôi tôm và không có những cọng lông đuôi phụ hình vòng cung phủ dài trên lớp lông đuôi chính. Nguồn gốc gà Mã lại bắt nguồn từ miền Bắc Việt Nam. Ngưòi dân miền Bắc đã đá gà Mã lại từ thòi thuộc Pháp. Gà xám Mã lại là những con gà Mã lại có bộ lông màu xám lợt hoặc dặm đều. Các tay nuôi gà thường chuộng gà xám có bộ lông khô như câu: Nhất xám khô, nhì ô ướt. Hiện tại thì những người chơi gà nòi ở Việt Nam chưa đặt ra một tiêu chuẩn nào về hợp cách của một con gà nòi và bộ lông của nó. Tuy nhiên, có thể tham khảo các tiêu chuẩn sau đây:

– Màu chân: Gà chân trắng được xem là hợp cách và thượng hạng cho tất cả các màu lông ngoại trừ gà xám Mã lại và ó Mã lại có bộ lông màu nâu.

– Màu mỏ: Màu mỏ phải giống màu chân nếu không thì là không hợp cách.

– Màu mắt: Gà có màu mắt trắng xanh là thượng phẩm. Gà này khôn. Mắt màu trắng thường là nhất phẩm – gà dữ. Mắt màu đen là nhị phẩm – gà hiểm. Mắt màu vàng thau là tam phẩm – gà lì. Mắt màu đỏ là gà tồi. Gà này dễ bị loà ỏ nước khuya.

Các giống gà nòi nước ta

*

Các loại gà nòi ở nước ta

Tùy theo thổ âm của mỗi vùng tại Việt Nam mà gà nòi được hiểu và gọi theo nhiều từ khác nhau. Ngoài miền Bắc gà nòi được gọi là gà chọi, trong khi miền Trung gọi là gà đá. Chữ “chọi” theo tiếng của miền Bắc có nghĩa là đánh lẫn nhau. Riêng chữ “đá” dùng để diễn tả cách gà nòi cùng chân để đá con gà đối phương trong trận đấu. Trong miền Nam hầu hết mọi người đều dùng hai chữ “gà nòi”. Mặc dù dùng ba danh từ khác nhau để diễn tả gà nòi nhưng các tay chơi gà tại các miền khác nhau trên nước Việt Nam đều hiểu rõ các danh từ địa phương và vui vẻ chấp nhận cả những danh xưng về gà nòi này một cách hài hòa.

Trong miền Nam, nơi sản sinh ra nhiều giông gà cựa hay, các tay nuôi gà nòi thường chuyên biệt về một loại gà đòn hay cựa chứ không chuyên cả hai loại. Nhưng các tay chơi gà cựa hay gà đòn . cũng dùng hai chữ “gà nòi” để nói đến loại gà mình nuôi, mặc dù có sự khác biệt rất rõ ràng giữa hai lọai gà này như đã phân tích ở phần trên. Theo thông lệ thì những tay chơi gà đòn không tham gia vào các trận đấu của dân chơi gà cựa và ngược lại nguyên nhân chính là hai lọai gà này có những cách nuôi và kỹ thuật khác nhau trong việc huấn luyện xoay xổ, cũng như cách dưỡng gà để ra trường.

Gà đòn

*

Gà Đòn

– Đặc Điểm Chung: + Gà không cựa: Gà đòn thường được sách vở mô tả là loại gà chân trơn, không cựa hoặc cựa mọc không dài, cựa vừa lú như hạt bắp. Gà này lớn được dùng theo thuật đá đòn bịt cựa. Danh từ “gà đòn” phát xuất từ miền Trung được dùng để gọi riêng loại gà đá đòn bằng quản và bàn chân. Ngày nay danh từ gà đòn đã được công chúng dùng một cách rộng rãi để gọi chung các loại gà nòi đấu ở trường gà đòn trong đó có những loại gà miền nam có cựa dài và biết xử dụng cựa.

Ớ miền Trung, đá gà là thú tiêu khiển của người lam lũ, khi hết mùa đồng áng mới bắt tay vào việc chơi gà. Bởi lẽ tiền bạc khó kiếm nên dân miền Trung thích chơi gà đòn – một độ dù thắng hay thua cũng kéo dài suốt mấy giờ đồng hồ, có khi suốt ngày. Vì chuyên về gà đòn nên người dân miền Trung tuyển chọn cản gà khiến gà bị nín cựa, mọc chậm và ngắn. Nếu con nào có cựa mọc dài cũng sẽ bị cưa hoặc mài ngắn. Khi cựa mối lú cũng bị chủ gà bấm cựa khiến cựa bị tầy đầu, không lú ra được.

Nói chung thì lối đá của gà đòn khác hẳn gà cựa. Gà đòn dùng quản và bàn chân đế quất. Gà cựa thì dùng cựa để đâm. Cựa của gà đòn có gốc to và mọc rất chậm so vói gà cựa. Gà đòn chín tháng tuổi thì cựa cũng chỉ bằng hạt bắp.

+ Đầu và diện mạo: Xương sọ gà nòi lớn hơn gà thường, đỉnh đầu của xuơng thường lớn bản và bằng. Mặt gà rộng bản với xuơng gò má nhô cao. Vì được gần gũi và chăm sóc bởi chủ kê nên gà nòi có những đặc tính tâm lý rất khác biệt với các lọai gà khác, chẳng hạn khi được chủ kê cho ăn hay tắm rửa, khuôn mặt gà nòi biểu lộ nét thoải mái và tự tin, khi có người lạ đến gần gà nòi sẽ ngóng cao đầu và nghiêng mặt, trô’ mắt tò mò theo dõi nhìn, khi đốì diện một con gà khác đôi mắt sẽ gườm lên thách thức so tài. Khi lâm trận thì mắt gà nòi lộ sát khí.

+ cổ lớn, da dày và nhăn: Cổ gà nòi lớn và trông rất mạnh bạo với một chiều dài vừa phải, xương cổ rất cứng cáp, các khốp xương gắn bó đều đặn và rắn chắc. Lớp da ở cổ gà nòi được xếp lốp theo hình sóng dợn. Những người xa lạ với gà nòi thường thắc mắc đặt câu hỏi: Gà nòi trụi lông một cách tự nhiên hay bị hớt? Câu trả lời không đơn giản vì còn tùy thuộc vào loại gà. Có những lọai gà nòi trụi lông cổ tự nhiên hoặc có rất ít lông nhưng cũng có những lọai có lông phủ đầy mình. Thông thường thì gà nòi trơ trụi cho đến khi được 1 tuổi nếu được nuôi ở những nơi có thòi tiết và khí hậu nóng ấm như Việt Nam. Lông ở cổ và đùi có thể sẽ không mọc lại được trong lần thay lông của mùa sau. Các tay chơi gà thường om và vào thuốic tẩm làm cho lốp sừng (da trên mặt) và lớp biểu bì săn chắc lại khiến cho các chân lông bị khô khiến lông khó mọc lại. Gà nòi đã được mang qua Hoa Kỳ nuôi và chúng đã dần dà phát triển bộ lông đầy đủ để thích nghi vối khí hậu lạnh. Gà nòi nơi đây thường có bộ lông đầy đủ hoặc chỉ trụi chút đỉnh ỏ phần cổ khi được 9 tháng tuổi.

Xem thêm: Cách Từ Chối Cuộc Gọi Trên Iphone 4S, Thực Hiện Cuộc Gọi Khẩn Cấp Trên Iphone

+ Sự phát triển của bộ lông: Gà nòi khác với những loại gà khác trên thế giói về sự phát triển mọc lông chậm chạp. Gà con chỉ có 3 hoặc 4 cọng lông cánh sau 6 tới 8 tuần. Gà con có ngoại hình trần trụi và bắp thịt nẩy nỏ. Toàn thân chỉ có lông tơ. Lông đuôi gà mái mọc sớm hơn vào khoảng 6 tuần. Đây là sự khác biệt nổi bật so ra vói gà Thái vì gà Thái sẽ mọc đuôi trong vòng 2 ngày.

Ở lứa tuổi này thì những loại gà khác đã sắp sửa đem ra trường để đá nhưng gà nòi thì chưa. Gà nòi cần 1 năm tuổi để phát triển các cơ bắp và xương cốt cọng thêm 6 tháng tập luyện thì mới nên cho ra trường. Cho gà ra trường sốm có thể khiến gà bị hỏng.

+ Chân và vảy: Chân gà nòi thường có hai hàng vảy vối đường đất chạy hình chữ Chi ở giữa hai hàng vảy. Gà nòi vối ba hay bốn hàng vảy thường rất hiếm. Có sách ghi rằng gà ba hàng vảy tuy đá nhanh đòn nhưng đòn không mạnh. Trong khoảng hơn ba thập niên qua, các tay chơi gà ỏ miền Nam thường không thích gà nòi có chân màu vàng, lý do là màu chân vàng là màu của gà thịt, một lọai gà Tàu hay gà Bắc Thảo nuôi để lấy thịt. Ngày nay lọai gà chân vàng tuy chưa được ưa chuông một cách rộng rãi nhưng cũng đã dần dà được chấp nhận trong giới mộ điệu chơi gà.

– Phân loại: Gà đòn là loại gà cổ trụi, chân cao, cốt lổn dùng để đá chân trơn hoặc bịt cựa. Gà đòn được chia ra hai loại rõ rệt. Đó là loại gà Mã lại (còn gọi Mã mái) và gà Mã chỉ.

+ Gà Mã lại:

Gà Mã Lai

Gà Mã lại còn đựơc gọi là gà Mã mái là loại gà có lông bờm và lông mã ngắn và tròn theo hình bầu dục. Gà Mã lại có lông đuôi chính xoè ra như đuôi tôm và không có những cọng lông đuôi phụ hình vòng cung phủ dài trên lớp lông đuôi chính.

Theo tài liệu riêng của hai hội viên của Hội gà nòi Việt Nam thì gà Mã lại bắt nguồn từ miền Bắc Việt Nam. Theo lòi kể của một vị sư kê lớn tuổi ở miền Bắc thì người dân miền Bắc đã đá gà Mã lại từ thời Pháp còn đô hộ Việt Nam. Chúng ta chưa có đầy đủ dữ kiện về khoảng thời gian gà Mã lại được đưa vào Nam nhưng chúng ta có thể đoán rằng những sự kiện lịch sử như cuộc di cư năm 1930 của đồng bào miền Bắc vào Nam để làm nhân công trong những đồn điền cao su của Pháp ít nhiều cũng có liên hệ trong sự hiện diện của gà Mã lại ỏ miền Nam.

Một sự kiện lịch sử khác xảy ra vào năm 1954 khi đất nước Việt Nam bị chia đôi bỏi hiệp định Genevo và có hàng triệu đồng bào miền Bắc di tản vào Nam cũng có thể có liên quan tới sự hiện diện của gà Mã lại ỏ miền Nam.

+ Xám Mã Lại:

Gà mã lai xám

Những con gà Mã lại có bộ lông màu xám nhạt hoạc đặm đều đựơc gọi chung là xám Mã lại. Các tay nuôi gà thường chuộng gà xám có bộ lông khô như câu: “Nhất xám khô, nhì ô ướt”.

Hiện tại thì những người chơi gà nòi ở Việt Nam chưa đặt ra một tiêu chuẩn nào về hợp cách của một con gà nòi và bộ lông của nó. Tuy nhiên, đối vối những vị sư kê đã từng đá gà ở miền Nam thì sự hợp cách cũng đã được nhiều người chú ý và áp dụng. Những dữ kiện về hợp cách của màu lông sau đây là dữ kiện do một hội viên của Hội gà nòi Việt Nam cung cấp. Những dữ kiện này không phải là tiêu chuẩn chính thức do một cơ quan có thẩm quyền nào đặt ra mà chỉ là những dữ kiện đã từng được các vị sư kê tại miền Nam áp dụng thòi trước năm 1975.

• Màu chân: Gà chân trắng được xem là hợp cách và thượng hạng cho tất cả các màu lông ngoại trừ gà xám Mã lại và ó Mã lại có bộ lông màu nâu.

• Màu mỏ: Màu mỏ phải giống màu chân nếu không thì là không hợp cách

• Màu mắt: Gà có màu mắt trắng xanh là thượng phẩm. Gà này khôn

Mắt màu trắng thường là nhất phẩm: Gà dữ;

Mắt màu đen là nhị phẩm: Gà hiểm; Mắt màu vàng thau là tam phẩm: Gà lì;

Mắt màu đỏ là gà tồi. Gà này dễ bị loà ỏ nưốc khuýa.

=> Hợp cách cho gà xám Mã lại là: Chân vàng + mắt vàng = Hạng nhất; Chân xanh + mắt trắng = Hạng nhì; Chân đen + mắt trắng = Hạng ba; Chân trắng = Thất cách.

+ Ô Mã lại: Gà ô Mã lại là loại gà có màu lông đen tuyền. Đây là loại gà tiêu biểu đông đảo nhất.

*

gà ó mãi lai

=> Hợp cách của ồ Mã lại: Chân trắng + mắt trắng = Hạng nhất; Chân đen + mắt trắng = Hạng nhì; Chân đen hoặc xanh + mắt vàng thau hoặc đen – Hạng ba;

Gà ô Mã lại mà có một vài cọng lông trắng nơi cánh và đuôi (gián cánh) vẫn được xem là hợp cách.

Gà ô chân trắng đựơc nhiều người ưa chuộng như câu: “Gà ô chân trắng, mẹ mắng cũng mua. Gà trắng chân chì, mua chi thứ ấy”.

+ Ô bông: Gà ô bông có bộ lông đen và trắng pha lẫn.

*

gà ô bông

Con Ô bông có thân hình rắn chắc này đã từng thắng một trận thư hùng quan trọng của các danh sư. Theo lòi tường thuật của một vị sư kê có mặt tại hiện trường thì đối thủ của nó là một danh kê ở miền Trung và bị nó hạ ỏ khoảng phút thứ bảy của hiệp một với đòn mu lưng. Khi bị đòn thì đốì thủ nằm xoạc cánh dãy đành đạch trưóc khi chết. => Hợp cách của Ô bông:

Chân trắng + mắt trắng = Hạng nhất;

Chân đen + mắt trắng = Hạng nhì;

Chân đen hoặc xanh + mắt đen = Hạng ba.

+ Ó Mã lại (điều): Gà Mã lại có bộ lông đỏ hoặc nâu đều đựơc gọi chung là ó Mã lại. Tuy nhiên, hợp cách của mỗi loại hơi khác nhau.

*

gà ó mã lại (điều)

=> Hợp cách của gà điều: Chân trắng + mắt trắng = Hạng nhất;

Chân vàng + mắt vàng = Hạng nhì;

Chân xanh + mắt xanh = Hạng ba;

Chân đen = Thất cách.

+ Ó Mã lại (nâu):

*

gà mãi lại nâu

=> Hợp cách của Ó Mã lại có bộ lông màu nâu:

Chân vàng = Hạng nhất;

Chân xanh = Hạng nhì;

Chân trắng = Hạng ba.

+ Nhạn:

*

gà nhạn

Gà mã lại màu trắng ít được ưa chuộng vì thường bị thua.

Gà nhạn có chân đen được xem là thất cách.

+ Gà Mã chỉ:

*

gà mã chỉ

Gà Mã chỉ là loại gà có lông mã (trên lưng gần đuôi) dài và nhọn. Gà Mã chỉ cũng sẽ có lông bờm dài và nhọn, cả hai thứ này đều khác vói gà Mã lại. Ngoài ra, gà Mã chỉ cũng sẽ có thêm lông đuôi phụ cong dài phủ trên lóp lông đuôi chính. Gà Mã chỉ đựớc xem là một giống gà khác biệt với giống gà Mã lại. Ngoài ra thì các tay nuôi gà còn gọi loại gà có lông mã vừa nhỏ vừa ngắn là gà Mã kim. Đây là một thí dụ về loại gà đòn miền Trung. Gà có vóc dáng cao, thế đứng ưõn ngực, mặt mũi dữ tợn. Lông mã nằm gọn trên lưng, ngắn và nhỏ lăn tăn như kim nên còn đựơc gọi là Mã kim. Con gà ô này có bộ mã chỉ màu đỏ. Thưòng thì gà có lông mã màu đỏ cũng sẽ có lông bòm màu đỏ.

+ Gà cựa

gà cựa

Gà cựa là lọai gà nhỏ và nhẹ hơn vối bô lông phát triển đầy đủ và có cựa bén nhọn và dài. Gà cựa phát xuất từ miền Nam và được đa số người miền Nam yêu chuộng đá gà theo lốỉ gà cựa. Nghệ thuật chơi gà cựa không được phổ thông ngoài miền Trung và miền Bắc.Theo truyền thống xa xưa thì gà cựa được thả cho đá với cựa tự nhiên mọc ra nhưng ngày nay các tay chơi đá gà cựa đã biến hóa và tháp cựa căm (cựa nhọn làm bằng căm xe), hay cựa dao cho các trận gà sinh tử. Những đặc điểm khác của gà cựa cũng khác nhiều khi so vối gà đòn như:

– Mặt: Gà cựa có khuôn mặt rạt bảnh gà và da mặt mỏng hơn.

– Mắt: Mắt gà cựa nhỏ và tròn, mí mắt mỏng.

– Cổ: Cổ gà cựa ngắn và nhỏ hơn nhiều so với gà nòi.

– Chân: Ngắn và nhỏ.

– Cựa: Gà cựa mọc cựa rất nhanh, hình thể cựa gà rất bén nhọn và dài.

– Lông: Gà cựa có lông phủ kín tòan thân. Lông cổ mọc dài thành bờm và lông mã mọc dài phủ xuống hai bên hông trông rất đẹp.

– Đuôi: Đuôi gà cựa là lọai lông ống nhỏ mềm mại, khó gẫy. Các lông phủ đuôi mọc dài và cong vòng như lông đuôi chim phụng.

– Trọng lượng: Gà cựa cân nặng trong khác biệt từ 2,2 – 3,2kg.

Cách tuyển giống gà chọi

Tìm hiểu một số kỹ thuật chọn lọc và nhân giống gàNhân giống thuần chủng

Thông thường mỗi gia đình gà có 1 trông và 10 – 12 mái. Ngoài ra, trong mỗi gia đình còn có 1 – 2 trông dự phòng. Các cá thể trong gia đình đều đượcđeo số để tiện theo dõi. Gà mối nỏ được đeo số ỏ cánh, lớn lên được đeo thêm sô” ỏ chân. Trứng của từng con mái đẻ cũng được đánh số và đưa vào ấp trong các khay riêng biệt. Để tránh nhầm lẫn do gà nhảy ra trong thòi gian nở, người ta làm những khay ấp có chụp đậy. Dựa vào số liệu ghi trên vỏ trứng sẽ biết được lý lịch của chúng. Sau khi đã được chọn lọc qua các giai đoạn tuổi khác nhau: lúc 1 ngày tuổi, giai đoạn hậu bị và giai đoạn đẻ, tiến hành đánh giá giá trị giống của từng cá thể và chọn ghép gia đình để tái sản xuất thế hệ tiếp theo với nguyên tắc anh em ruột hay anh em cùng bô” khác mẹ hoặc cùng mẹ khác bô không được ghép vào một gia đình mới.

Chọn lọc giống gà ông bà

So vối các dòng thuần, công tác giống đối với gà ông bà đơn giản hơn. Việc đánh giá chọn lọc giống đốì với các đốì tượng này chủ yếu theo phương pháp chọn lọc quần thể, tức là dựa vào chỉ tiêu năng suất, ngoại hình của bản thân con giống, không tính đến chỉ tiêu năng suất bô” mẹ, anh chị em ruột và anh chị em họ. Chỉ tiêu chọn giống quan trọng nhất đối với gà ông bà là khôi lượng cơ thể và ngoại hình. Số gà bị loại do khuyết tật ngoại hình hoặc khối lượng không đạt tiêu chuẩn. Mặc dù tiến bộ di truyền đạt được do chọn lọc đối với mỗi cá thể là khiêm tôn, nhưng lợi ích kinh tế tổng thể thu được từ tất cả đàn gà sản xuất ra là đáng kể.

Chọn gà con 1 ngày tuổi

+ Gà con mang từ máy nở ra phải để riêng theo từng dòng trống và dòng mái và chọn tách trống mái theo yêu cầu đối vối mỗi giống. Cân 10% số gà nỏ ra để xác định khối lượng bình quân của từng dòng. Chọn những cá thể có khối lượng xấp xỉ khối lượng sơ sinh trung bình của từng dòng. Chọn những cá thể có ngoại hình chuẩn: Thân hình cân đối, không dị tật, lông bông tơi xốp, bụng thon nhỏ, không hỏ rốn, mắt tinh nhanh, mỏ và chân cứng cáp, sáng bóng, dáng đi nhanh khoẻ. Loại bỏ những cá thể: Mỏ vẹo, mắt kém, đồng tử méo; cổ vẹo; lưng cong; không có phao câu; không có đuôi; xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn, dị dạng, ngón chân và bàn chân cong, bàn chân sưng hoặc bị nhiễm khuẩn, trẹo đầu gối; ngực bị phồng lên; cơ ngực phát triển không bình thường; bộ lông không tơi xốp hoặc bị ưốt dính.

+ Gà con sau khi được chọn cho vào hộp và phải để riêng theo từng dòng, mỗi hộp đựng 100 con riêng biệt

+ Chuyển gà con xuống chuồng nuôi riêng biệt theo từng dòng theo cơ cấu đàn như sau: So với bà ngoại thì sô” lượng gà bà nội chiếm tỷ lệ 30%, ông ngoại chiếm 20% và ông nội chiếm 19% so vói bà nội. Mỗi ô nuôi không quá 300 con (nếu nuôi nền), nuôi tách riêng trông, mái từ lúc 1 ngày tuổi đến 19 – 20 tuần tuổi.

Chọn gà lúc 21 ngày tuổi hoặc 42 ngày tuổi

+ Trước khi chọn giống cần phải kiểm kê chính xác sô” gà còn lại của từng dòng. + Xác định quy mô đàn giống dự kiến (số gà mái đầu kỳ của cả dòng mái và dòng trống ông bà).

+ Đốỉ với bà ngoại: Chỉ loại những cá thể có khuyết tật, ốm yếu, gà trông bị lẫn. Thường giữ lại 95 – 97% số gà so với đầu kỳ. Đối với ông ngoại: Sau khi loại những cá thể có khuyết tật, ốm yếu, chỉ giữ lại những con nặng cân nhất để làm giông; sô” lượng trông giữ lại thường là 60 – 65% so vói đầu kỳ.

+ Đối với bà nội: Cũng chỉ loại những cá thể có khuyết tật về ngoại hình và thể chất, kể cả trông bị lẫn mái. Thường giữ lại 94 – 95% so vối đầu kỳ. Đôi vối ông nội: Sau khi loại những cá thể bị khuyết tật, ốm yếu, chỉ giữ lại những con nặng cân, khoẻ nhất để làm giống, chỉ giữ lại 15% so vói bà nội.

+ Những khuyết tật của cá thể được biểu hiện trong những đặc điểm sau: Mỏ vẹo, mắt kém, đồng tử méo, cổ vẹo, lưng cong vẹo, xương lưỡi hái bị vẹo, ngắn, dị dang, đi bằng đầu gối, khèo chân, hở rốn, ngón chân bị cong, sưng bàn chân, lông phát triển kém. Công việc chọn lọc được tiến hành như sau: Nếu đàn gà vào chọn được nuôi trong nhiều ô chuồng thì chọn theo từng ô độc lập. Mục tiêu là giữ lại những cá thể tốt nhất của từng ô. Xác định khối lượng cơ thể trung bình của từng ô bằng cách cân chọn mẫu từ 10 – 20% số gà có mặt trong từng ô, sau đó tiến hành cân từng cá thể. Căn cứ vào khốỉ lượng sống trung bình của từng mẫu, ngoại hình và sô” gà cần chọn của từng ô, mà quyết định giữ lại những cá thể nào làm giông.

Chọn gà lúc 19 – 20 tuần tuổi

Trưóc khi đàn gà được chuyển lên chuồng gà đẻ để ghép trống mái, cần tiến hành chọn lọc lần thứ 3. Các tính trạng được chọn lọc trong giai đoạn này chủ yếu là ngoai hình và thể chất.

+ Đối vối 2 dòng trông: Chọn những cá thể đạt khối lượng chuẩn, khoẻ mạnh nhanh nhẹn, bộ lông phát triển, màu và tích tai to màu đỏ tươi, hai chân chắc chắn cân đối, không dị tật về ngón, dáng đứng tạo với mặt nền chuồng một góc 450. Loại bỏ những cá thể quá gầy, dị tật . Tỷ lệ trông được giữ lại 12 – 13% so vối dòng mái. Sau đó sẽ loại thải dần trong quầ trình khai thác trứng giống để đạt tỷ lệ trống so với mái khoảng 9 -10%.

+ Đốì với 2 dòng mái: Giữ lại những cá thể có khối lượng sống đạt xấp xỉ trung bình của đàn, bộ lông bóng mượt, mào và tích tai phát triển màu đỏ tươi mỏ và 2 chân chắc chắn cân đối, khoảng cách xương chậu và mỏm xương lưỡi hái rộng, bụng mềm, lỗ huyệt rộng cử động. Loại bỏ những cá thể gầy yếu, dị tật.

Chọn lọc giai đoạn gà đẻ

Để giảm bớt sự lảng phí về thức ăn, trong qúa trình khai thác trứng giống, định kỳ hàng tháng một lần tiến hành loại thải những cá thể đẻ kém theo một số” đặc điểm ngoại hình sau: Những cá thể có mào và tích tai kém phát triển, màu nhợt nhạt, lỗ huyệt nhỏ, khô, ít cử động, những cá thể vào giai đoạn cuối khai thác trứng mà bộ lông vẫn bóng mượt, lông lưng và lông cổ vẫn còn nguyên vẹn thì chứng tỏ rằng những cá thể đó đẻ kém cần phải loại thải. Một công đoạn quan trọng trong công tác giống đối với gà ông bà là chọn phối giữa các dòng. Những con trống và mái đưa vào thử nghiệm lai phải được chọn lọc kỹ càng, đặc trưng cho các dòng hoặc giống về năng suất, ngoại hình, đồng thời ngưòi chọn giông phải biết chọn phối thích hợp nhằm củng cố hoặc tạo ra ưu thế lai về một số tính trạng mong muốn ở con lai.

Các phương pháp lai tạo giống

*

Các phương pháp lai tạo giống

Khác với nhân giống thuần, lai giống là cho giao phốỉ những cá thể thuộc các dòng hoặc các giống khác nhau. Bản chất di truyền của lai tạo giống là nâng cao ưu thê lai của đời con, là cơ sỏ nâng cao năng suất và sức sổng của gia súc, gia cầm. Lai là sự đổi lập với phương pháp nhân giống thuần. Theo quan điểm di truyền học trong lai tạo giống có sự tổ hợp của các yếu tô” di truyền khác nhau. Như vậy lai giống sẽ làm tăng dị hợp tử gen. Tuỳ thuộc vào mục đích của công tác giống trong chăn nuôi gia cầm, có thể áp dụng các phương pháp lai giống khác nhau: – Lai kinh tế (còn gọi là lai thương phẩm): Đây là phương pháp lai chính trên cơ sở chọn lọc những giống thuần có những tính trạng năng suất nổi bật có thể bổ sung cho nhau. – Lai cải tiến (thêm hay pha máu). – Lai cải tạo hay lai cấp tiến. – Lai gây thành.

Lai kinh tế

Đó là phương pháp lai giữa hai cá thể thuộc 2 dòng hoặc 2 giống khác nhau để tạo con lai Fl làm sản phẩm. Con lai F1 này không sử dụng để làm giống. Các ví dụ về lai kinh tế trong chăn nuôi gia cầm ỏ nước ta như sau: Lai giữa dòng: Lai giữa 2 dòng, lai giữa 3 dòng, lai giữa 4 dòng, lai giữa 2 giống. Lai kinh tế dựa vào hiện tượng sinh học là ưu thế lai, nhằm tạo các con lai có năng suất và sức sống cao. Phương pháp lai kinh tế tuy đơn giản, nhưng để ổn định tính chất của sản phẩm ỏ con lai nuôi thịt hay đẻ trứng, khi sử dụng các cá thể đực, cái đưa vào giao phối phải chọn lọc kỹ lưõng và cần nghiên cứu những tính trạng trội vốn có ở chúng nhằm tổ hợp được những tính trạng mong muôn ở con lai. Tùy theo từng tính trạng mà mức độ biểu hiện khác nhau ỏ con lai. Có tính trạng nằm trung gian giữa hai giống gốc bố và mẹ, có tính trạnh thiên về bố hoặc thiên về mẹ. Thông thường tính trạng khối lượng cơ thể của con lai Fl nằm trung gian giữa bô” và mẹ.

Xem thêm: Cách Chơi Game Nông Trại Vui Vẻ, Nông Trại Vui Vẻ Kỳ Diệu

Lai cải tiến (lai pha máu)

Trong trường hợp một dòng, một giống đã đạt được các tiêu chuẩn cần thiết, nhưng còn thiếu một vài đặc tính theo yêu cầu (ví dụ sản lượng trứng cao nhưng khô! lượng trứng hơi bé) thì dùng phương pháp lai cải tiến. Phương pháp này còn gọi là phương pháp lai pha máu vì trong quá trình lai tạo, người ta có thể dùng đực của một giống khác có mang tính trạng mong muốn nhưng chỉ dùng 1 lần, không dùng liên tiếp. Khi tiến hành lai cải tiến cần chú ý là các con lai phải giữ nguyên được những đặc tính cơ bản của giông gốc. Vì vậy con trống, mái lai đòi đầu tiên tốt nhất phải cho giao phô! vối con trổng, mái thuần chủng của giống được cải tiến. Tiếp đó các con lai cho tự giao (nghĩa là giống được cải tiến mang 1/4 máu của giống cải tiến), hoặc cho giao phô! thêm một đòi nữa (tức đòi III) rồi mới chuyển sang tự giao (nghĩa là mang 1/8 máu của giống cải tiến).

Khi áp dụng phương pháp lai cải tiến cần chú ý chọn lựa cẩn thận con trống của giống cải tiến, vì nó đóng vai trò rất quan trọng là di truyền các đặc tính tốt cho giống được cải tiến. Nếu đặc tính này mang* tính di truyền trội lại càng tốt. Việc giữ được các đặc tính mới bổ sung ở đời sau rất quan trọng. Vì trong phương pháp này việc dùng con trống cải tiến thường chỉ một lần, cho nên phải làm thế nào để giữ được tính trạng đó, điều này liên quan mật thiết đến việc chọn lọc con tốt nhất và chọn phối đ